Góp ý của Đại biểu Quốc hội Huỳnh Nghĩa – TP Đà Nẵng

Thứ Tư 09:13 26-05-2010

Kính thưa Chủ tọa kỳ họp.

Kính thưa Quốc hội.

Qua nghiên cứu dự thảo luật sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu giải trình và chỉnh lý, tôi xin tham gia một số ý kiến như sau:

Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thu thập chứng cứ theo Điều 47, tại khoản 5, Điều 47 dự thảo luật quy định trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chúng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp. Quy định trên đây của dự thảo Luật trọng tài thương mại đối chiếu với quy định hiện hành về vấn đề này, chúng tôi thấy tại Khoản 2, Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì thẩm phán có thể tiến hành thu thập chứng cứ.

Tại Khoản 4 của Nghị quyết số 04 ngày 17/09/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong các trường hợp do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Cụ thể, chỉ khi đương sự có yêu cầu thì Tòa án mới tiến hành một số biện pháp thu thập chứng cứ. Như vậy căn cứ quy định vừa viện dẫn trên thì chỉ có đương sự trong vụ án mà Tòa án đang thụ lý giải quyết mới có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Và Tòa án chỉ thu thập chứng cứ đúng đối tượng quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra không có bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Trong thực tế nếu các cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Tòa án đều có quyền căn cứ vào quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự mà từ chối. Do đó nếu Luật trọng tài thương mại quy định Hội đồng trọng tài cũng có thẩm quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì cần thiết phải xem xét sửa đổi Khoản 2 của Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật nước ta và đảm bảo tính khả thi của Luật trọng tài thương mại khi ban hành.

Vấn đề thứ hai, về thẩm quyền trình tự thủ tục của tòa án áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 54. Khoản 1 của Điều 54 dự thảo Luật quy định sau khi nộp đơn khởi kiện và trước khi thành lập Hội đồng trọng tài, một bên có quyền làm đơn gửi đến tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong trường hợp này thì trình tự thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Khoản 2, Điều 99 của Luật tố tụng dân sự. Nhưng theo quy định tại Khoản 2, Điều 99 của Bộ luật tố tụng dân sự thì tòa án chỉ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Một trường hợp duy nhất là khi đương sự đồng thời vừa nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, vừa nộp đơn khởi kiện tại tòa án. Trong khi đó theo Khoản 1, Điều 54 dự thảo Luật trọng tài thương mại thì đương sự nộp đơn khởi kiện là trọng tài chứ không phải tòa án. Điều luật này dẫn chiếu tới Khoản 2, Điều 99 của Bộ luật tố tụng dân sự là không phù hợp. Do đó chúng tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem lại điều này.

Vấn đề thứ ba là về phạm vi trách nhiệm của trọng tài theo Điều 22. Hiện nay có hai loại ý kiến khác nhau xung quanh trách nhiệm của trọng tài viên. Theo giải trình của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho rằng trọng tài viên chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi cố ý vi phạm các quy định của pháp luật. Theo tôi giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài viên trong bất kỳ trường hợp nào đều là lỗi cố ý, không có trường hợp nào là lỗi vô ý, nhiệm vụ của trọng tài viên là vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, đây là hành vi cố ý, nếu có lỗi xảy ra cũng là lỗi cố ý, không phải là lỗi vô ý. Việc vận dụng pháp luật của trọng tài viên nếu sai, trọng tài phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trọng tài viên không thể vin vào lỗi vô ý để từ bỏ trách nhiệm của mình. Do đó không nên đặt ra vấn đề lỗi cố ý hay vô ý đối với Trọng tài viên. Chính vì vậy cần phải bắt buộc trọng tài viên phải chịu trách nhiệm toàn bộ về phán quyết của mình.

Tôi đề nghị thiết kế lại Điều 22 của Dự thảo luật trước đây đã tham gia, khi thực hiện nhiệm vụ của trọng tài viên, trọng tài viên phải chịu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật. Quy định này theo tôi nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của trọng tài viên, đồng thời làm tăng độ tin cậy và uy tín của trọng tài viên. Tôi xin hết.

Các văn bản liên quan