Chỉ nên dùng một loại thuế suất GTGT? – Nguyễn Ngọc Phụng

Chủ Nhật 22:00 30-03-2008

Tham gia ý kiến về dự thảo sửa đổi hai luật thuế GTGT và Thu Nhập Doanh Nghiệp
                                                                                                                       
                                                                                                            Nguyễn Ngọc Phụng
                                                                Công ty CP Tư Vấn XD Giao thông Khánh Hòa 

Kính gửi : Webmaster của VCCI

       Vừa qua Dự án Vie 02/008 UNDP của VP Quốc Hội có gửi cho tôi xem bản dự thảo sửa đổi hai luật thuế GTGT và Thu Nhập doanh nghiệp dự định thông qua Quốc Hội vào tháng 5 năm 2008.
        Sau khi vinh dự được mời tham gia và phát biểu tại  buổi hội thảo hai ngày 20 và 21 /3 do UB Tài Chính - Ngân Sách của Quốc Hội tổ chức tại Đà Lạt  dưới sự chủ trì của Đ/c Phùng Quốc Hiển để lấy ý kiến đóng góp về hai luật thuế ( sửa đổi ) nêu trên.
 
      Tôi xin mạnh dạn đóng góp những ý kiến như sau :
 
      Trước hết , tôi xin tự giới thiệu , tôi không phải chuyên ngành luật , tôi là một kỹ sư công chánh ( Civil Engineer) tốt nghiệp năm 1975 tại Sài Gòn , làm nghề tư vấn xây dựng giao thông tại tỉnh Khánh Hòa. Được tín nhiệm của tập thể giao quản lý một doanh nghiệp Cổ phần  thuộc loại vừa và nhỏ có  70 nhân viên hơn 20 năm qua , hoạt động theo Luật Doanh nghiệp VN .
     Mỗi năm công ty tôi nộp các loại thuế chỉ khoảng 1 tỷ đồng VN.
 
A. Luật thuế GTGT ( sửa đổi ):  tôi xin được dùng chung từ GTGT hoặc VAT cho tiện trình bày .
 
    Tôi xin lấy báo cáo thuế GTGT cuối tháng của công ty làm ví dụ minh chứng nếu áp dụng luật thuế GTGT sửa đổi :
     Đầu năm 2008 tôi đã ký kết 4 hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn Khảo sát Thiết kế
( KSTK) cho bốn nhà đầu tư, phân theo nguồn vốn như sau ( chọn loại công trình có qui mô kỹ thuật như nhau ): 
      
1 . KSTK  cầu cảng 1 cho một xã đảo , nguồn vốn viện trợ  nhân đạo  do Việt kiều tài trợ . 
2 . KSTK  cầu cảng 2 cho tỉnh Khánh Hòa , nguồn vốn ODA ( JBIC ) nhà nước có đối   ứng thuế . 
3. KSTK cầu cảng 3 cho tỉnh Khánh Hòa , nguồn vốn ngân sách tỉnh theo KH XDCB năm 2008.
4. KSTK  cầu cảng 4 cho tư nhân Vinpearl Land , Nguồn vốn tư nhân của tập đoàn VINCOM . 

Giá trị dịch vụ tư vấn theo hợp đồng là 10 tỷ đồng chưa kể thuế GTGT cho mỗi công trình.
 
       Tiến hành triển khai hợp đồng, tôi vay tín dụng ngân hàng ACB 6 tỷ đồng/ mỗi công trình  để mua vật tư thiết bị. Khi mua vật tư thiết bị, tôi đã thanh toán cho nhà cung cấp 6 tỷ đồng cho mỗi CT, theo dự thảo thuế GTGT (sửa đổi) tôi đã chi thuế GTGT đầu vào 0,6 tỷ đồng qua nhà cung cấp để nộp cho ngành thuế và nhận hoá đơn đầu vào từ nhà cung cấp có ghi rõ thuế GTGT 0,6 tỷ đồngx4=2,4 tỷ của 4 công trình.
 
      Sau khi hoàn thành dịch vụ tư vấn bàn giao cho các chủ đầu tư, tôi khai báo thuế GTGT bằng phần mềm do Cục thuế Khánh Hòa cung cấp, nội  dung tóm tắt như sau:
 

  1. Cầu 1 : Doanh thu 10 tỷ đồng , VAT đầu ra 0 đồng , không được hoàn thuế đầu vào vì theo  điều 4.14 công trình  phục vụ công cộng , cơ sở hạ tầng dùng vốn viện trợ nhân đạo .Ngành thuế thu 0,6 tỷ đồng từ nhà cung cấp vật liệu đầu vào của công ty . Ngân sách Khánh Hòa tăng 0,6 tỷ đồng.
  2. Cầu 2 : Doanh thu 10 tỷ đồng , VAT đầu ra 1 tỷ  đồng , được hoàn thuế đầu vào 0,6 tỷ đồng .Công ty nộp 0,4 tỷ VAT sau khấu trừ ; ngành thuế thu 1 tỷ = 0,6 đầu vào + 0,4 tỷ đầu ra .
                Nhà nước phải đối ứng chi 1 tỷ đồng ngân sách để thanh toán cho ngành thuế .ODA chỉ trả 10 tỷ đồng giá trị thuần. Ngân sách Khánh Hòa tăng 0 đồng.
  3. Cầu 3 : Doanh thu 10 tỷ đồng , VAT đầu ra 1 tỷ  đồng , được hoàn thuế đầu vào 0,6 tỷ đồng.
    Công ty nộp 0,4 tỷ VAT sau khấu trừ ; ngành thuế thu 1 tỷ = 0,6 đầu vào + 0,4 tỷ đầu ra. Nhà nước phải thêm chi 1 tỷ đồng ngân sách để thanh toán cho ngành thuế . Ngân sách Khánh Hòa tăng 0 đồng.
  4. Cầu 4 : Doanh thu 10 tỷ đồng, VAT đầu ra 1 tỷ đồng, được hoàn thuế đầu vào 0,6 tỷ đồng.
    Công ty nộp 0,4 tỷ VAT sau khấu trừ ; ngành thuế thu 1 tỷ = 0,6 đầu vào + 0,4 tỷ đầu ra . 
    Nhà đầu tư VINCOM là tư nhân phải trả 11 tỷ đồng , trong đó có 1 tỷ đồng thuế VAT. 

    Ngân sách Khánh Hoà thu được 1 tỷ đồng qua dịch vụ 4 nêu trên.

      Trường hợp (TH 1), nhà đầu tư dùng vốn viện trợ nhân đạo thanh toán 10 tỷ đồng, công ty mất thêm 0,6 tỷ đồng thuế GTGT đầu vào vì không được hoàn thuế theo luật thuế GTGT hiện hành.

       Nhưng ở đây, tôi thực sự không hiểu Cục thuế Khánh Hòa bằng biện pháp gì để  biết  được hoá đơn nào của đầu vào không được khấu trừ ? Nếu không đọc cụ thể nội dung các hoá đơn của tôi. 
       Thật ra công ty tôi mua vật tư và thiết bị một lần cho cả bốn công trình. Không tách riêng cho từng loại. Thanh toán qua ngân hàng có hóa đơn GTGT  hợp lệ của nhà cung cấp ghi rõ thuế đầu vào là 0,6 X 4 = 2,4 tỷ đồng. Trong đó đầu tư thiết bị có thuế GTGT 1,2 tỷ đồng. 
       Theo luật thuế GTGT ( sửa đổi ) điều 9.1.b tôi vẫn được khấu trừ phần thiết bị TSCĐ dùng chung cho các công trình là 1,2 tỷ. 
         Theo đúng luật thuế (sửa đổi) , trong tháng khai thuế, tôi được khấu trừ 2,4 tỷ đồng theo chứng từ hợp lệ đã kê khai đầy đủ. Nhà nước thất thu thuế 0,6 tỷ tại CT số 1

 
    TH2: , nhà đầu tư ODA thanh toán 11 tỷ đồng. Trong đó ODA chi 10 tỷ, Nhà nước đối ứng 1 tỷ.
              Công ty của tôi được khấu trừ 0,6 tỷ .
              Thuế thu 1 tỷ đồng, ngân sách Khánh Hòa  tăng 1-1 = 0 đ.
 
     TH3: nhà đầu tư ( UB Tỉnh KH ) thanh toán 11 tỷ đồng. Nhà nước trả thuế 1 tỷ. Công ty của tôi được khấu trừ 0,6 tỷ.
               Thuế thu 1 tỷ đồng = 0,6 + 0,4 , ngân sách Khánh Hòa tăng 1-1 = 0 đ.
 
     TH4: nhà đầu tư (VINCOM  tư nhân) thanh toán 11 tỷ đồng. Trong đó thuế GTGT 1 tỷ.
               Thuế thu 1 tỷ đồng , ngân sách Khánh Hòa tăng 0,6 đầu vào + 0,4 đầu ra = 1 tỷ.
                Công ty của tôi được khấu trừ đầu vào 0,6 tỷ .
 
       Trước những tình huống cụ thể trên, tôi kiến nghị Quốc Hội xem xét, cân nhắc trước khi thông qua luật thuế GTGT  vào  tháng 5/2008 theo kế hoạch:
 

  1. Chỉ nên dùng một loại thuế suất GTGT cho tất cả mọi loại hình kinh doanh trừ loại hình nêu ở mục 2 dưới đây và loại hình xuất khẩu theo thông lệ quốc tế  .

Thuế suất bao nhiêu do các nhà làm luật nghiên cứu và đề xuất với Quốc Hội cho phù hợp với hiện trạng kinh tế VN theo kết quả điều tra xã hội cụ thể .
 

1. Đối với loại hàng hóa dịch vụ đầu tư XDCB  dùng vốn Ngân sách nhà nước phải được tính thuế suất 0% để giảm tổng chi của ngân sách . Quốc hội sẽ thông qua danh mục công trình đầu tư XDCB sử dụng vốn Ngân sách ( Hàng năm UB Kinh tế - Ngân sách vẫn chuẩn bị việc này trình Quốc Hội ) và công bố công khai khi giao kế hoạch XDCB hàng năm cho các Bộ Ngành áp thuế suất GTGT 0% để lập dự toán tổng mức đầu tư trình các cấp phê duyệt trước khi cho đấu thầu theo Luật Đấu thầu và Luật Xây Dựng hiện hành..

2. Kiến nghị bỏ điều 4.14 , vì như phân tích ở trên , khó có sổ sách kế toán nào quản lý được hoá đơn đầu vào nào được hay không được hoàn thuế.


3. Kiến nghị các công trình phục vụ công cộng sử dụng vốn viện trợ nhân đạo hoặc nhân dân đóng góp cũng áp thuế suất như công trình dùng vốn Ngân sách nhà nước.
 
Lý do : Nguyên lý thuế GTGT là gián thu , người tiêu thụ sản phẩm sau cùng phải chịu số thuế phát sinh , người cung cấp dịch chỉ nhận tiền nộp thuế thay cho người tiêu thụ sau khi được thanh toán theo hợp đồng đã ký kết.
 
Kiến nghị Tất cả mọi hóa đơn hợp lệ của đầu vào phải được hoàn thuế hoặc khấu trừ thuế khi kê khai không phân biệt loại hình kinh doanh nào và có giá trị một năm tài chính không phải 3 tháng như hiện nay .Thực tế  khó có  thể phân loại được hết các hoá đơn chi tiết của đầu vào (loại nào có hoàn thuế loại nào không hoàn thuế ) trong chu kỳ kinh doanh một năm của công ty . 
  
4.  Áp dụng phương pháp khoán thuế như thuế doanh thu trước đây cho các loại kinh doanh nhỏ lẻ, không sổ sách kế toán. 
Khoán bao nhiêu do các chuyên gia luật nghiên cứu đề xuất với QH trên cơ sở điều tra xã hội từng vùng miền, từng loại hình kinh doanh. 

Thực tế hiện nay một vài địa phương ngành thuế đã khoán rồi. Ví dụ tại Khánh Hòa đã áp dụng 10,58% doanh thu đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN nếu doanh nghiệp không có chứng từ sổ sách đầy đủ và minh bạch.
 
 B. Thuế TNDN (Thu Nhập Doanh Nghiệp)
 
    Kiến nghị Quốc Hội xem xét:
 
    ** Điều 10.m : quảng cáo tiếp thị hoa hồng..., phải có nhiều định mức tuỳ theo nhóm loại hình kinh doanh, không nên dùng chung một định mức 10% giá thành cho tất cả doanh nghiệp.

    Định mức bao nhiêu do các chuyên gia đề xuất sau khi có số liệu thống kê điều tra xã hội cụ thể của các viện chuyên ngành XH và kinh doanh.
 
  **Điều 10.i về tiền lương và tiền công , thù lao của sáng lập viên công ty có kể Hội đồng quản trị của công ty CP không? 
Nội dung này chưa thống nhất với điều 58.2 của Luật doanh nghiệp:
     “  ..  thù lao, tiền lương của thành viên hội đồng thành viên ... được tính vào chi phí kinh doanh theo quy định của pháp luật .... được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính năm của công ty ....”
 
  ** Ngoài ra, trong Hội thảo ngày 21/12/2006 tại TP Hồ Chí Minh về thuế GTGT đối với công trình XDCB sử dụng vốn Ngân sách do UB Kinh Tế - Ngân Sách của Quốc Hội tổ chức,  Đ/c Nguyễn Đức Kiên chủ trì và cố TSKH Tào Hữu Phùng  đã ghi nhận ý kiến:
 
 “..khi nào Nhà nước thanh toán hết nợ XDCB cho các doanh nghiệp xây lắp thì mới thu thuế TNDN “
 
       Kính đề nghị Ban soạn thảo hai luật thuế của Quốc Hội xem xét ý kiến nêu trên để giảm bớt gánh nặng về thực trạng phải ứng tiền nộp thuế của các doanh nghiệp xây lắp các công trình của Nhà nước đầu tư sau khi đã bàn giao công trình mà chậm giải ngân.    
 
     Trên đây là toàn bộ phần kiến nghị của một cử tri trước Quốc Hội, đồng thời với trách nhiệm một đảng viên Đảng CSVN mong muốn Ngân sách nhà nước hàng năm được sử dụng hiệu quả hơn.

     Đề xuất của tôi có thể ảnh hưởng đến việc giảm chi ngân sách Nhà nước 15.000 tỷ đồng mỗi năm , đủ để đầu tư hầm Thủ Thiêm qua sông Sài Gòn mà không cần huy động thêm các nguồn khác.

    Giảm chi ngay từ khâu phân bổ kế hoạch XDCB đầu năm vì không tính 10% thuế GTGT đối với công trình đầu tư XDCB sử dụng vốn ngân sách Nhà nước .
 
    Các bài  báo đã được cho đăng để xin ý kiến thảo luận:
 
   vietnamnet.vn/bandocviet/2006/11/631757/ 
   vietnamnet.vn/bandocviet/2005/09/493909/
 
 và các tạp chí Thời báo Kinh tế Saigon, báo GTVT ,tạp chí KHKT GTVT , báo người xây dựng năm 2006.
           
    Kính mong Quốc Hội xem xét trong lúc đang thảo luận thông qua hai luật thuế GTGT và TNDN (sửa đổi ).
 
    Kính mong Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam VCCI tạo điều kiện cho tôi được có dịp trình bày cụ thể với người có thẩm quyền quyết định hai luật thuế GTGT và TNDN sửa đổi lần này.
    Mọi chi phí đi lại và ăn ở tại Hà Nội tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm .
 
    Chân thành cảm ơn . 
      Xin vui lòng liên hệ :
 
Nguyễn Ngọc Phụng
84-86 Thống Nhất Nha Trang
Tỉnh  Khánh Hòa – Việt Nam
ĐT 058 562 718 hoặc 058 562720 ( giờ làm việc )
Hoặc liên hệ email:  pn1952@gmail.com và kpcc_vn@dng.vnn.vn
 
Hoặc nhờ ông  Trần Thanh Dũng ,
VP Dự án Vie02/008 , 37 Hùng Vương Hà Nội liên hệ giúp.

Các văn bản liên quan