Các đại biểu Quốc hội thảo luận về Dự án Luật Công nghệ cao

Thứ Sáu 11:01 24-10-2008

Nguyễn Đức Kiên  - Phó Chủ tịch Quốc hội

Kính thưa Quốc hội!
Dự thảo Luật Công nghệ cao được nghiên cứu, tiếp thu rất chu đáo để trình Quốc hội tại kỳ họp này. Xin Quốc hội cho ý kiến tập trung vào 6 nhóm vấn đề dưới đây:
- Nhóm vấn đề thứ nhất là chính sách của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao. Điều này thể hiện một tinh thần lớn nhất là áp dụng ưu đãi cao nhất về vốn, thuế, đất đai và các chính sách tài chính kinh tế khác.
- Nhóm vấn đề thứ hai là công nghệ cao được ưu tiên phát triển với điều kiện cụ thể của nước ta, tinh thần trước mắt chúng ta tập trung vào một số lĩnh vực làm cho đến nơi, đến chốn và có hiệu quả. Sẽ điều chỉnh bổ sung trong từng thời kỳ cho phù hợp với sự đổi mới phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
- Nhóm vấn đề thứ ba là chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao. Đây là một điều kiện cơ bản để góp phần thực hiện tốt chủ trương lộ trình phát triển công nghệ cao ở nước ta.
- Nhóm vấn đề thứ tư, đào tạo nhân lực công nghệ cao, đây được coi là nhóm nhân tố mang ý nghĩa quyết định phát triển công nghệ cao ở nước ta.
- Nhóm vấn đề thứ năm, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động công nghệ cao đặt vấn đề là ưu tiên và hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đây là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho việc phát triển công nghệ cao ở nước ta nhanh và có hiệu quả.
- Nhóm vấn đề thứ sáu, cuối cùng là các biện pháp khuyến khích thúc đẩy hoạt động công nghệ cao, cốt lõi là xác định rõ vai trò của Nhà nước và khai thác mọi nguồn lực trong toàn xã hội, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đẩy mạnh hoạt động công nghệ cao ở nước ta.
Đấy là 6 nhóm vấn đề xin các vị đại biểu Quốc hội tập trung cho ý kiến.
 
Nguyễn Thị Mai  - Ninh Thuận 

Trong thời đại hiện nay, thời đại của nền kinh tế trí thức, khoa học và công nghệ phát triển như là vũ bão bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển nhanh và bền vững thì đều phải đưa khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại, vào đó chính là khoa học công nghệ cao, công nghệ hiện đại. Vì vậy tôi rất đồng tình và ủng hộ dự án luật này, tôi xin tham gia một số ý kiến như sau.

Thứ nhất, về chính sách Nhà nước đối với công nghệ cao quy định tại Điều 4 trong Dự thảo luật rất cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên ở Khoản 3, chỉ mới đề cập đến việc tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao đạt trình độ khu vực và quốc tế mà chưa đề cập đến cơ chế chính sách đào tạo, phát triển tiềm lực con người về công nghệ cao. Mặt khác để nâng cao trách nhiệm của Nhà nước hơn nữa trong việc bảo đảm ngân sách cho việc thực hiện phát triển những dự án công trình công nghệ cao có ý nghĩa quan trọng đối với kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Do đó cần phải bổ sung thêm cụm từ "ưu tiên" vào đoạn đầu của Khoản 5, Điều 4.

Thứ hai, về thông tin dịch vụ hỗ trợ thị trường công nghệ ở Khoản 4, Điều 14 đề nghị bổ sung cụm từ " chợ công nghệ thiết bị gọi tắt là Techmart" vào cuối cụm từ "tham gia chợ". Như vậy Khoản 4 được viết lại như sau: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biện pháp hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tổ chức tham gia chợ công nghệ thiết bị, gọi tắt là techmart và hội trợ triển lãm công nghệ cao. Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm một khoản quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với đầu tư, khai thác các nguồn thông tin công nghệ cao trong và ngoài nước nhằm phục vụ để chuyển giao công nghệ cao. Vậy thêm Khoản 5 vào Điều 14 như sau: "Nhà nước đầu tư, thực hiện để hiện đại hóa hệ thống thông tin quốc gia liên thông với quốc tế, tổ chức khai thác hiệu quả các nguồn thông tin công nghệ cao trong nước và ngoài nước, phục vụ chuyển giao công nghệ cao".

Thứ ba, về chức năng, nhiệm vụ công nghệ cao ở Điều 31 gồm có 2 khoản và 6 mục, tôi hoàn toàn nhất trí. Tuy nhiên tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu và bổ sung chức năng chuyển giao công nghệ cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tóm lại Luật công nghệ cao có tính đặc thù riêng và rất khó, do đó tôi đánh giá khá cao Ban soạn thảo đã tốn nhiều công sức trong quá trình tổ chức soạn thảo và chỉnh sửa để hoàn chỉnh Dự án luật này. Việc thông qua Dự án Luật công nghệ cao là rất cần thiết và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế của thế giới và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo tôi luật này đã đủ điều kiện và để thông qua trong Kỳ họp thứ tư này. Xin cảm ơn Quốc hội.
 
Vũ Thị Phương Anh  - Quảng Nam 

Qua nghe báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Công nghệ cao, tôi cơ bản thống nhất và nhận thấy dự thảo lần này đã tiếp thu được rất nhiều ý kiến của các đại biểu đã tham gia góp ý tại Kỳ họp thứ ba, tôi xin tham gia thêm một số ý kiến theo gợi ý của Đoàn chủ tịch cho nên chúng tôi không đi sâu vào kỹ thuật mà xin tham gia vào một số vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách đào tạo nguồn nhân lực và phát triển công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay.

Có thể nói phát triển công nghệ cao và các khu công nghệ cao là một trong những phương thức được nhiều quốc gia trên thế giới theo đuổi để nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế nói chung và các ngành công nghệ cao có một ảnh hưởng tích cực đáng kể đối với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trong những năm 80 của thế kỷ XX, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trong các nước OECD đã tăng được 117%. Ngày nay, việc các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật vẫn tiếp tục dành nguồn lực của mình để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ RD đã cho thấy tầm quan trọng của các ngành công nghệ cao. Chính vì vậy tôi rất đồng tình với Điều 4 là chính sách của Nhà nước đối với công nghệ cao, tuy nhiên chúng tôi cũng xin bổ sung thêm ý kiến là trong thời gian vừa qua các chính sách hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ cao chủ yếu tập trung vào hợp tác trong lĩnh vực đào tạo khoa học công nghệ, hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, chủ yếu thông qua các hình thức song phương và chưa có các chính sách khuyến khích đủ mạnh để thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài, trí thức Việt Kiều trực tiếp làm việc tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu trong nước. Số thống kê này chúng tôi thấy đối với người Việt Nam hiện nay tham gia các lĩnh vực công nghệ cao ở nước ngoài thì rất lớn.

Vấn đề thứ hai, công nghệ cao cần được ưu tiên đầu tư phát triển và sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển ở Điều 5, Điều 6.

Tại Điều 5, Điều 6 chúng tôi thấy quy định 4 lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa. Đây là 4 lĩnh vực phù hợp, vì đã được khẳng định trong nghị quyết của Đảng, vì vậy cần phải được nhấn mạnh trong dự thảo luật lần này. Tuy nhiên trong thời điểm hiện nay chúng ta đưa ra 4 lĩnh vực này và trong giai đoạn phát triển như hiện nay, cùng với việc nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, ngày càng phát triển theo nhiều lĩnh vực công nghệ tiên tiến, cho nên đòi hỏi cần có sự bổ sung. Theo dự án luật vấn đề này chúng tôi thống nhất và giao cho Chính phủ.
Hiện nay chúng tôi băn khoăn một điều khi đưa vào hoặc tuyển chọn lĩnh vực công nghệ cao cần phải có hội đồng thẩm định cũng như xét duyệt, nếu giao chung chung như thế này sau sẽ khó cho thực hiện.

Vấn đề thứ ba, về chương trình quốc gia về công nghệ cao, để tạo được động lực thực sự mạnh từ phía nhà nước nhằm thúc đẩy, phát triển công nghệ cao cần có một chương trình công nghệ quốc gia phát triển công nghệ cao với các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đồng bộ để xây dựng và phát triển các ngành công nghệ cao, coi đây là kênh quan trọng để tạo sự phát triển bứt phá cho một số lĩnh vực trọng điểm, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập khu vực kinh tế quốc tế của Việt Nam. Một số nước trên thế giới cũng có chương trình tương tự và đạt hiệu quả. Các đại biểu đã được gửi dự thảo về Luật Công nghệ cao của Ucraina để tham khảo.

Ở đây dự thảo luật cũng đã đưa ra quy định cho Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng trình Chính phủ phê duyệt các cơ chế, chính sách. Chúng tôi nghĩ rằng đối với cơ chế đào tạo cần có sự ưu đãi vì đây là giai đoạn đầu của chúng ta mới phát triển bởi vì đối với các dự án luật khác thì chúng ta có một quá trình dài sau đó xây dựng dự án luật khác thì chúng ta đã có một quá trình dài sau đó xây dựng dự án luật, còn đối với Luật công nghệ cao chúng ta mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Thứ tư là về quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao ở Điều 22, có thể nói rằng đầu tư mạo hiểm trong hoạt động công nghệ cao là đầu tư cho nghiên cứu phát triển công nghệ cao. Hình thành và phát triển doanh nghiệp công nghệ là hoạt động đầu tư có nhiều rủi ro nên ít có tổ chức, cá nhân đầu tư trong lĩnh vực này, mặc dù nếu thành công thì cũng sẽ thu lợi tất lớn. Hiện nay Việt Nam chúng ta có rất nhiều tổ chức đầu tư vào quỹ mạo hiểm này, tuy nhiên chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin và đối với các nhà đầu tư chủ yếu là để thu lợi nhuận là chính. Chính vì vậy đối với Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển, Nhà nước cần có một quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia đi tiên phong trong hoạt động này mới có khả năng đẩy mạnh được và tạo được bước phát triển vượt bậc, đột phá trong lĩnh vực công nghệ cao ở Việt Nam.

Vấn đề cuối cùng chúng tôi xin tham gia phát biểu đó là về phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao tại Chương IV, đây là vấn đề không phải riêng tôi mà tôi nghĩ các đại biểu cũng như cử tri cả nước rất quan tâm. Để phát triển công nghệ cao thì nguồn nhân lực là một yếu tố then chốt và cần được đầu tư phát triển đồng bộ, không chỉ thông qua các chương trình đào tạo chính quy mà còn cần được đào tạo trong các hoạt động nghiên cứu và triển khai thực hiện các đề tài, dự án khoa học và công nghệ cao. Ở đây theo chúng tôi phải áp dụng những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà nghiên cứu quản lý năng lực và trình độ cao, người có kỹ năng, kỹ thuật giỏi, lực lượng trẻ xuất sắc được đào tạo trong nước và ở nước ngoài để tham gia hoạt động công nghệ cao ở Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin bổ sung thêm là chúng ta mới đưa ra vấn đề đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao tại các trường đại học và trong các cơ sở đào tạo của Việt Nam, chủ yếu là các Viện nghiên cứu. Chúng tôi thấy rằng cần phải đầu tư, trang bị cơ sở vật chất để đào tạo công nghệ cao để khi các trường đào tạo ra thì nguồn nhân lực của mình có thể đáp ứng được yêu cầu thực tại. Bởi vì mặc dù chúng ta có thể đưa đi đào tạo ở nước ngoài nhưng chúng ta phải xác định về lâu dài đào tạo nguồn nhân lực trong nước phải là vấn đề then chốt và là vấn đề cơ bản nhất.

Ý cuối cùng, đó là khi có cơ chế, chính sách đối với việc đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, đối với đào tạo chính quy thì được rồi, nhưng đối với các chuyên gia nghiên cứu giỏi tham gia các đề tài, dự án liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao thì cần phải được quan tâm và phải có một cơ chế thích đáng. Bởi vì đối với lực lượng này vừa có lý thuyết rất sâu sắc và vừa có thực tế giỏi , có thể tham gia để đạt được kết quả cao. Đó là một số ý kiến tôi xin tham gia, xin cảm ơn Quốc hội.
 
Trần Văn  - Cà Mau 

Cơ bản tôi đồng tình với dự án luật và Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự án luật đã đề cập khá đầy đủ về các vấn đề liên quan. Tôi có một số ý kiến bổ sung cụ thể đối với nội dung dự thảo luật.

Thứ nhất, ở trang 2, Khoản 9, Điều 3, tôi cho rằng cần thêm từ "dịch vụ" sau "kinh doanh sản phẩm".
Trang 3, Điều 5, Mục 1, Khoản a thêm mục viễn thông sau công nghệ thông tin. Cũng ở trang 3, Điều 5, Mục 1 thêm Khoản e là công nghệ năng lượng mới. Đây là một điều rất cần thiết và rất quan trọng mà chiến lược phát triển năng lượng của Việt Nam đã nêu ra yêu cầu này. Trang 3, Điều 5, Mục 2 có lẽ cần phải thêm Khoản b là sử dụng ít nguồn lực vật chất nhưng tạo ra giá trị gia tăng rất cao, đồng thời bảo vệ tốt môi trường.

Điều 6 nên bỏ Tiết c vì đây là điều tất nhiên và sản xuất của chúng ta hiện nay đang là nền sản xuất hàng hóa hướng tới xuất khẩu.
Tại các Điều 10, 12, 27, 23 ở những phần liên quan đến hỗ trợ của Nhà nước luôn có cụm từ "xem xét" thể hiện cơ chế xin - cho. Tôi cho rằng Nhà nước đã có chính sách và Nhà nước sẽ quyết định mức hỗ trợ cụ thể theo danh mục theo Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định tại Khoản 4, Điều 5 và tại Khoản 2, Điều 6 của luật. Cho nên tôi đề nghị bỏ cụm từ "xem xét" tại các điều này.

Trang 16, Điều 33, Mục 6 chỉ áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15 năm là không đủ khuyến khích đối với công nghệ cao. Công nghệ cao mang lại nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội, môi trường, khả năng đạt được mức lợi nhuận cao gấp nhiều lần so với các ngành công nghiệp khác, nhưng đầu tư ứng dụng lại có nhiều rủi ro, nếu khuyến khích không đủ mạnh thì ít ai dám mạo hiểm đầu tư. Thực ra 10% thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp công nghệ cao có giá trị tuyệt đối lớn hơn nhiều so với 25% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp khác.

Cuối cùng tôi cho rằng Nhà nước cần đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực công nghệ cao, vì đầu tư của Nhà nước sẽ tạo niềm tin cho các khối doanh nghiệp khác và dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực rủi ro này. Đây cũng là một điều kiện cần thiết để phát triển đất nước ta nhanh và bền vững, bởi vì trong kỷ nguyên mới không có công nghệ cao thì không thể phát triển nhanh và bền vững được. Xin hết.
 
Ly Kiều Vân  - Quảng Trị 

Dự án Luật công nghệ cao đã được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 3 và đã có nhiều ý kiến tham gia góp ý vào dự thảo luật này. Tuy nhiên Dự thảo luật trình tại kỳ họp này bản thân tôi thấy cần tiếp tục quan tâm đến những vấn đề sau:

Vấn đề thứ nhất, về những vấn đề chung, tôi cho rằng Dự thảo luật chỉ có 34 điều nhưng đã giao cho Chính phủ hướng dẫn thi hành đến 9 điều như vậy là không phù hợp. Do vậy Ban soạn thảo cũng cần xem xét những điều nào đã rõ thì cần quy định ngay trong dự thảo luật, hạn chế giao cho Chính phủ hướng dẫn thi hành.

Vấn đề thứ hai, về bố cục của Dự thảo luật tôi cơ bản nhất trí như Dự thảo luật. Tuy nhiên tôi thấy rằng tại Chương II và Chương III Ban soạn thảo cũng cần nghiên cứu và gộp lại thành một chương, vì thực chất nội dung của hai chương này cũng nhằm phát triển công nghệ cao.

Vấn đề thứ ba, Ban soạn thảo cần nghiên cứu xem xét bổ sung thêm một chương quy định trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công nghệ cao để bảo đảm phù hợp với đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật. Tuy nhiên trong Dự thảo cũng đã quy định phạm vi của Nhà nước nhưng chưa rõ ràng, cho nên tôi đề nghị cần phải có chương riêng quy định về vấn đề này.

Về những vấn đề cụ thể trong Dự thảo luật tôi xin tham gia 2 điều luật:

Thứ nhất, Điều 8 là những hành vi bị nghiêm cấm, theo tôi quy định như Dự thảo là chưa đủ, cần phải bổ sung thêm một khoản quy định các hành vi khác gây ảnh hưởng đến hoạt động công nghệ cao. Bởi vì thực tế các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động công nghệ cao không chỉ có 7 hành vi mà dự thảo đã quy định.

Tại Điều 18, Khoản 2 dự thảo luật quy định khuyến khích giảng viên, cán bộ nghiên cứu, sinh viên của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo tham gia hoạt động công nghệ cao thành lập hoặc tham gia thành lập doanh nghiệp công nghệ cao. Theo tôi dự thảo luật quy định như trên là không phù hợp với Điểm a, Khoản 1, Điều 24 dự thảo Luật cán bộ công chức, quy định những việc cán bộ, công chức không được làm. Điểm a, Khoản 1, Điều 24 dự thảo Luật cán bộ công chức quy định cán bộ công chức không được tham gia thành lập  hoặc thành lập quản lý điều hành doanh nghiệp. Do vậy Ban soạn thảo cũng cần xem xét quy định cho phù hợp.
Trên đây là ý kiến tham gia góp ý vào dự án luật, xin cảm ơn Quốc hội.
 
Phạm Mạnh Hùng  - Thái Nguyên 

Trước hết tôi xin khẳng định sự đồng tình với các nội dung cơ bản của dự thảo Luật công nghệ cao và Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Luật công nghệ cao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tôi xin góp ý thêm 3 điểm.

Thứ nhất, Chương III, Mục 2, các biện pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ cao. Điều 20 về chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Khoản 1 nội dung dự thảo luật có viết: chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao có mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, từng bước tạo ra công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao trong nước nhằm hình thành phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Tôi đề nghị bổ sung nội dung: Đào tạo nguồn nhân lực. Mặc dù dự thảo luật đã có Chương IV về nhân lực công nghệ cao nhưng theo tôi vẫn phải bổ sung nội dung này, bởi lẽ nói tới biện pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ cao thì không thể không nói tới đào tạo nguồn nhân lực, đây phải là một nội dung quan trọng trong mục tiêu của chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao. Như vậy nội dung của Khoản 1, Điều 20 sẽ là: Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao có mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao, từng bước tạo ra công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao trong nước nhằm hình thành phát triển công nghiệp công nghệ cao. Thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao.

Theo đó Mục 3, Điều 20 là chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao có các nhiệm vụ chủ yếu sau: ngoài nhiệm vụ a, b, c có thể đưa vấn đề đào tạo nguồn nhân lực.

Thứ hai, Điều 24 phát triển nhân lực công nghệ cao tôi đề nghị bổ sung vào Khoản 1 điều này nội dung "Nhà nước có kế hoạch quy hoạch phát triển nhân lực công nghệ cao" bởi lẽ trong thực tế vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở phạm vi vĩ mô cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập đặc biệt là tính kế hoạch và quy hoạch tổng thể lâu dài. Đào tạo phát triển nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao đòi hỏi phải đầu tư chất xám, thời gian và cơ sở vật chất rất lớn nên càng phải có kế hoạch và quy hoạch ở phạm vi quốc gia, trên cơ sở đó mới đáp ứng được yêu cầu đầu tư có trọng điểm và hiệu quả về phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao.

Thứ ba, Điều 27 về cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ cao, Khoản 3 của điều này là "Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trường đại học, thực hiện đào tạo nhân lực công nghệ cao được Nhà nước xem xét hỗ trợ kinh phí đào tạo" Tôi đề nghị bổ sung thêm hai chữ "đảm bảo " sau từ "hỗ trợ" Như vậy nội dung của khoản này sẽ là "tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trường đại học thực hiện đào tạo nhân lực công nghệ cao được Nhà nước xem xét, hỗ trợ, đảm bảo kinh phí đào tạo" vì "hỗ trợ kinh phí đào tạo" và "hỗ trợ đảm bảo kinh phí đào tạo" là hai mức độ khác nhau. Trong thực tế nguồn thu của nhiều cơ sở đào tạo hiện nay rất khó khăn trong đảm bảo kinh phí đào tạo, đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao đòi hỏi kinh phí đào tạo càng lớn hơn vì như Khoản 2, Điều 26 của luật này đã chỉ rõ nhân lực công nghệ cao gồm có nhà khoa học, nghiên cứu, chuyên gia công nghệ, cán bộ quản lý, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật, nếu không có sự hỗ trợ và đảm bảo kinh phí của Nhà nước thì các cơ sở đào tạo nhân lực cao rất khó thực hiện tốt nhiệm vụ. Xin hết, xin cảm ơn Quốc hội.
 
Mai Thị Ánh Tuyết  - An Giang 

Trước tiên tôi đánh giá cao Dự án luật sau khi đã được tiếp thu, chỉnh lý trình Quốc hội lần này và tôi cũng đồng tình giải trình của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường về Dự án Luật Công nghệ cao. Để Dự án luật mang tính khả thi khi triển khai thực hiện, tôi xin góp ý một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, tại Điều 4 về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao, nhận thấy rằng để khuyến khích xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng nghiên cứu  và làm chủ, tạo ra công nghệ cao cũng như đầu tư phát triển nguồn lực cho công nghệ cao đạt trình độ khu vực và quốc tế, thì trong dự thảo luật có quy định các cơ chế chính sách đặc thù để khuyến khích xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, đẩy nhanh vấn đề nghiên cứu, làm chủ cũng như vấn đề phát triển tiềm lực khoa học công nghệ.

Tuy nhiên hiện nay vấn đề cơ chế chính sách đặc thù chưa quy định, do đó vấn đề thực hiện cơ chế này rất khó. Đề nghị trong điều này cần quy định rõ vấn đề về cơ chế, chính sách đặc thù, hoặc giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ cụ thể hóa các cơ chế chính sách ưu đãi để thực hiện việc ưu đãi đặc thù về khuyến khích nghiên cứu và làm chủ, tạo ra khoa học, công nghệ cao cũng như phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao, vì hiện nay các quy định hiện hành chưa quy định về cơ chế đặc thù về vấn đề này.

Thứ hai, tôi đồng tình tại Điều 5 về 4 đối tượng tập trung lĩnh vực công nghệ cao là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu xây dựng mới, công nghệ tự động hóa và giao cho Bộ Khoa học và công nghệ chủ trì phối hợp với bộ, ngành xác định công nghệ cao cụ thể, ưu tiên phát triển trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và có sửa đổi, bổ sung danh mục công nghệ, ưu tiên phát triển phù hợp với từng lộ trình.

Tuy nhiên để triển khai vấn đề ở Điều 6 là sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích và phát triển. Tôi thấy vấn đề sản phẩm phát triển công nghệ cao hiện nay trong quy định này, chúng ta thấy các sản phẩm khuyến khích phát triển công nghệ cao tại Điều 6 là giao cho Bộ khoa học và công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan lựa chọn các sản phẩm công nghệ cao trong các ngành kinh tế, kỹ thuật, lĩnh vực xã hội trình Thủ tướng Chính phủ ban hành sửa đổi, bổ sung danh mục.

Trên thực tế vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay là vấn đề bức xúc, lĩnh vực này cũng tạo ra sản phẩm cần thiết, do đó cần phải bổ sung vấn đề khuyến khích bảo vệ môi trường vào vấn đề sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển. Do đó tại Điều 6 đề nghị bổ sung các đối tượng được khuyến khích chứ không phải ngoài lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, lĩnh vực xã hội cần bổ sung thêm lĩnh vực bảo vệ và môi trường.

Điều 10 về biện pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao. Khoản 2 quy định xem xét hỗ trợ chi phí từ kinh phí của chương trình quốc gia về phát triển công nghệ cao, từ kinh phí khác và các nguồn gốc về ngân sách. Trên thực tế tùy theo điều kiện thực tế của từng vấn đề nghiên cứu thì Nhà nước sẽ có hỗ trợ 1 phần hay hỗ trợ toàn phần. Do đó vấn đề này cần có quy định rõ, vấn đề thực hiện 1 phần hay toàn phần, đồng thời đề nghị giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ cụ thể vấn đề hỗ trợ toàn phần đối tượng nào và 1 phần là đối tượng nào để khi triển khai thực hiện đảm bảo thực hiện khuyến khích các thành phần kinh tế và các đối tượng, thực hiện được vấn đề thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ cao.

Điều 12 về các biện pháp thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ cao. Điều này có nêu các biện pháp thúc đẩy về nghiên cứu và phát triển công nghệ cao về ưu đãi về thuế, hỗ trợ về kinh phí nghiên cứu và phát triển nghiên cứu, miễn giảm thuế cơ sở vật chất, nhưng chưa nêu biện pháp về đào tạo nguồn nhân lực. Vì nguồn nhân lực là nguồn lực rất quan trọng để thúc đẩy thực hiện thành công hoạt động công nghệ. Do đó tôi thấy tại Điều 12 các biện pháp thúc đẩy nghiên cứu, cần bổ sung thêm 1 khoản mục quy định về khuyến khích phát triển nguồn nhân lực để phát triển nghiên cứu và phát triển công nghệ cao.

Điều 17 về doanh nghiệp công nghệ cao. Khoản 1 quy định số lao động của doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên trực tiếp tham gia nghiên cứu và phát triển sản phẩm phải đạt ít nhất 5% tổng số lượng lao động. Xét về thực tế chúng ta thấy phát triển trình độ khoa học công nghệ cao cần phải có một lực lượng, có kiến thức, có chuyên môn và có trình độ đạt được yêu cầu để thực hiện vấn đề phát triển công nghệ cao. Do đó cần bổ sung số lượng lao động của doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên cần có chuyên ngành đúng chuyên ngành phù hợp và trực tiếp tham gia nghiên cứu phát triển sản phẩm. Xét thấy rằng 5% trình độ trên tổng số lao động là rất ít, chưa đảm bảo thực hiện được vấn đề phát triển đối với doanh nghiệp công nghệ cao, do đó cần phải xem xét và phải cân nhắc mức từ 8% đến 10% để đáp ứng được nhu cầu phát triển công nghệ cao và lực lượng này phải có những chuyên ngành phù hợp với chuyên ngành của doanh nghiệp phát triển công nghệ cao.

Tại Điều 28 quy định về thu hút, sử dụng nhân lực công nghệ cao. Xét thấy rằng về vấn đề phát triển công nghệ cao thì tôi đồng tình với ý kiến các đại biểu trước đã phát biểu. Vấn đề phát triển công nghệ cao là một vấn đề đòi hỏi phải có một trình độ, lực lượng nghiên cứu, lực lượng có trình độ chuyên ngành đáp ứng được vấn đề phát triển công nghệ cao. Do đó ngoài vấn đề thu hút và vấn đề phát triển, vấn đề sử dụng nguồn nhân lực thì vấn đề đạo tạo nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết. Vì vậy trong Điều 28 nên quy định rõ về vấn đề đối tượng, như lĩnh vực chúng ta đào tạo nhân lực. Xin hết.
 
Huỳnh Thành Đạt  - TP Hồ Chí Minh 

Kính thưa Quốc hội,
Có thể nói rằng Luật công nghệ cao và Luật đa dạng sinh học là những luật mà phải nói là các trường đại học, các Viện nghiên cứu và các nhà khoa học trong và ngoài nước hết sức mong đợi. Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc phát triển công nghệ cao, đã có ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này. Nhưng có thể thấy hệ thống pháp luật về công nghệ cao chưa thống nhất và chưa đồng bộ, thiếu hướng dẫn cụ thể trong nhiều lĩnh vực, nhất là chính sách ưu đãi, khuyến khích sản xuất, dịch vụ, ươm tạo khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực cho công nghệ cao. Chưa có các quy định về những lĩnh vực ưu tiên, mũi nhọn về công nghệ cao phù hợp với tài nguyên, môi trường và con người. Đây là nguyên nhân mà chúng ta có thể thấy trình độ phát triển công nghệ của chúng ta hiện nay còn thấp, quy mô nhỏ và phải nói các doanh nghiệp hiện nay hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao ở trình độ lắp ráp là chủ yếu. Để khắc phục tình trạng này thì việc ban hành Luật công nghệ cao trong thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết, nếu không muốn nói là hết sức cấp bách.

Một điều chúng tôi cũng hết sức tâm đắc là vừa rồi Nghị quyết Trung ương 7 về trí thức ra đời, phải nói Nghị quyết này sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi để Luật công nghệ cao của chúng ta đi vào cuộc sống. Qua dự thảo lần này và Tờ trình của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, chúng tôi đánh giá như sau:

Dự thảo lần này phải nói là chặt chẽ và có tính hệ thống, kế thừa được các yếu tố hợp lý của các văn bản liên quan trước đây và có nhiều quy định có tính chất đột phá, ưu đãi về đất, về kinh phí đầu tư, về thuế, về các cơ chế đào tạo nhân lực công nghệ cao. Theo ý kiến cá nhân tôi, việc quan trọng chúng ta tổ chức triển khai như thế nào để sớm đưa luật này vào cuộc sống. Lần này chúng tôi thấy Ban soạn thảo chuẩn bị hết sức chu đáo đã có kèm theo một nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của luật này.

Thứ hai, danh mục sản phẩm công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển. Phải nói danh mục này chúng tôi đánh giá cũng rất cao, khá đầy đủ ở tất cả các lĩnh vực mà chúng ta cần ưu tiên đầu tư phát triển.

Nhân đây tôi xin bổ sung thêm 2 lĩnh vực ở trong danh mục này là lĩnh vực về thiết kế vi mạch và tế bào gốc, hiện nay một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam chúng ta đang thực hiện được điều này.

Tôi xin bổ sung thêm một số ý trong một số điều cụ thể, ở Điều 6, chúng tôi xin đề nghị bổ sung vào Khoản 1, Điểm a như sau: "Có khả năng cạnh tranh cao" và chúng tôi xin bổ sung thêm câu này "Có tỷ trọng giá trị gia tăng cao trong cơ cấu giá trị của sản phẩm" và câu với lý do là tỷ trọng giá trị gia tăng trong cơ cấu giá trị là yếu tố chính yếu để xác định sản phẩm là công nghệ cao.
Tại Điều 22, đề nghị bổ sung cuối Khoản 1 thêm một đoạn: "tham gia góp vốn thành lập các quĩ đầu tư mạo hiểm quy định tại Điều 21, Khoản 2 luật này", lý do chức năng của quĩ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia có nhiệm vụ mở đường đầu tư vốn mới để lôi kéo các thành phần kinh tế khác, thành lập các Quỹ đầu tư mạo hiểm.

Xin được phép bổ sung thêm trong phần nghị định hướng dẫn, như các đại biểu phát biểu trước thì việc đào tạo nguồn nhân lực cao là yếu tố hết sức quan trọng, có tính chất quyết định cho nên tôi đề nghị trong nghị định hướng dẫn nên hướng dẫn thêm phần đào tạo nguồn nhân lực.

Điều 27 là cơ sở đào tạo nhân lực công nghệ cao. Điều này chúng tôi xin bổ sung như sau: Trong nghị định hướng dẫn nói đến việc thành lập mới các cơ sở đào tạo công nghệ cao. Tuy nhiên đại biểu cũng có thể thấy hiện nay ở Việt Nam có nhiều cơ sở đào tạo, các cơ sở nghiên cứu có khả năng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao như trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ. Ngoài việc đầu tư xây dựng cơ sở mới chúng tôi đề nghị đầu tư cho các cơ sở hiện có có khả năng tăng cường khả năng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao.

Tóm lại ý kiến của chúng tôi là luật đã hoàn toàn đủ điều kiện để thông qua trong kỳ họp này. Xin hết.
 
Nguyễn Minh Thuyết  - Lạng Sơn 

Về cơ bản tôi tán thành Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và văn bản dự thảo luật. Sau đây tôi xin phát biểu 5 ý kiến liên quan đến những vấn đề về chính sách.

Điều 4 về chính sách của nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao. Chúng tôi thấy có lẽ chưa có dự thảo luật nào mà những chính sách ưu tiên của nhà nước được khẳng định rõ rệt như ở trong dự thảo luật này. Toàn bộ Điều 4 có 5 khoản và dùng những từ ngữ ở mức độ mạnh nhất, ví dụ: huy động mọi nguồn lực, áp dụng đồng bộ những mức ưu đãi cao nhất, dành cơ chế đặc biệt, dành cơ chế tài chính đặc thù v.v... Chúng tôi thấy điều đó thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước đối với phát triển công nghệ cao. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi đặt ra một vấn đề là khi chúng ta ưu tiên phát triển công nghệ cao thì ưu tiên đầu vào hay ưu tiên đầu ra? Tôi cho rằng chúng ta cần ưu tiên đầu ra, vì ưu tiên đầu ra mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Bởi vì nghiên cứu công nghệ nói chung và nghiên cứu công nghệ cao có rất nhiều rủi ro, nếu chúng ta dồn tất cả sức ưu tiên đầu vào thì có khi chúng ta phải chịu những tổn thất về mặt kinh tế khá lớn, tổn thất về mặt thời gian cũng khá lớn. Trong khi đó chúng ta dùng ưu tiên cho đầu ra chúng ta hỗ trợ cho đầu ra nhiều chính là chúng ta hỗ trợ cho các nhà khoa học bắt tay vào nghiên cứu tốt hơn. Ví dụ, Nhà nước có thể mua sản phẩm công nghệ cao với giá cao hoặc thưởng với mức rất cao, hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp để người ta mua công nghệ cao. Theo tôi như thế tốt hơn là chúng ta dồn sức nhiều cho đầu vào.

Tôi xin nói một ví dụ để Quốc hội cũng thấy, tức là gần đây có chuyện cây đa Tân Trào ở Tuyên Quang nó chết. Tôi rất buồn với giới khoa học của mình, đặc biệt là các nhà sinh học. Không phải là chúng ta không có những ưu tiên cho lĩnh vực này, không phải chúng ta không đầu tư vào cho các cơ sở nghiên cứu, các công trình nghiên cứu, nhưng cuối cùng chỉ có một công ty ở Hà Nội là Công ty Thanh Hà người ta cứu được cây đa Tân Trào. Tôi cũng không biết nó công nghệ cao hay công nghệ thấp, nhưng rõ ràng người ta cứu được, người ta cung cấp thuốc và cung cấp công miễn phí để cứu cây đa Tân Trào. Tôi cho rằng trường hợp này Nhà nước cần có phần thưởng xứng đáng cho công ty này nhất là sau khi đã chứng minh rõ rệt cây đa sống được.

Vấn đề thứ hai cũng về chính sách, chúng tôi muốn đặt ra là chúng ta vẫn phải ưu tiên đầu vào nhưng trong ưu tiên đầu vào thì ưu tiên cái gì, ưu tiên cho tổ chức nghiên cứu công nghệ cao hay ưu tiên cho dự án công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao hay ưu tiên cho việc đào tạo nhân lực về công nghệ cao hay ưu tiên cho con người tức là những nhân lực tham gia hoạt động công nghệ cao. Theo chúng tôi phải xác định thứ tự ưu tiên cho đúng, chúng tôi cho là trước hết phải ưu tiên dự án, rồi đến đào tạo, đến tổ chức và nhân lực. Chúng tôi thấy trong dự thảo này ưu đãi cho đào tạo là không rõ, các vị đọc từ Điều 24 đến Điều 26, từ trang 11 đến trang 12 thấy có nhiều điều viết chung chung và không có quy định của luật này, thì đào tạo vẫn được ưu tiên như thế. Ví dụ ngân sách cho giáo dục đào tạo hàng năm phải có kinh phí để chọn, cử người đi học nước ngoài về công nghệ cao. Việc này không quy định thì chắc chắn vẫn phải có, nhưng chúng ta phải xác định ưu tiên như thế nào, cử người đi học về công nghệ cao thì được ưu tiên như thế nào trong việc tuyển chọn, dành bao nhiêu phần trăm ngân sách, ví dụ như vậy thì chúng ta nên nói rõ. Hoặc ưu đãi về nhân lực thì cũng không rõ, ở trang 13 có 5 mục ghi rõ những ưu tiên, nhưng tôi thấy chỉ có mỗi Mục d là ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập cá nhân thực sự là có ưu đãi còn lại là tôn vinh, khen thưởng thì ai cũng được tôn vinh, khen thưởng nếu có thành tích hay tạo điều kiện tham gia hợp tác quốc tế điều đó cũng là bình thường, tôi cũng được tạo điều kiện tham gia hợp tác quốc tế v.v...... Chúng tôi xin đề nghị xem lại, nếu thực sự được ưu tiên thì mới ghi vào, không thực sự ưu tiên thì không nên ghi.

Vấn đề về chính sách, chúng tôi thấy nước ta còn nghèo, bây giờ chúng ta tập trung ưu tiên cho nghiên cứu công nghệ cao hay chúng ta tập trung cho ứng dụng công nghệ cao. Thế giới người ta có công nghệ cao rồi, người ta phát triển rồi, theo chúng tôi, ta nên tập trung vào ứng dụng và mặt nhập công nghệ cao nhiều hơn là để mầy mò nghiên cứu mà có khi không thành công. Bây giờ chúng ta hãy hạn chế chuyện nhập muối, nhập thịt từ nước ngoài vào mà ưu tiên cho nhập công nghệ cao, chúng tôi cho là nên có những chính sách khuyến khích hơn nữa mặc dù chúng ta đã có Luật chuyển giao công nghệ, nhưng chúng ta cần rà soát lại nếu những gì trong luật đó chưa thật tạo điều kiện phát triển công nghệ cao thì nên bổ sung những điều kiện, như vậy chúng tôi cho là tốt hơn.

Thứ ba, về doanh nghiệp công nghệ cao. Chúng tôi xin đề nghị nên bổ sung một điều quy định rõ là xét hàng năm hay mấy năm một lần và khi doanh nghiệp này không còn bảo đảm được điều kiện của một doanh nghiệp công nghệ cao nữa thì nó có được đưa ra khỏi danh sách không, bởi vì công nghệ cao thì năm nay cao, nhưng năm sau thì có thể trở thành không cao.
Thứ tư, chúng tôi xin nói là điều kiện thành lập khu công nghệ cao ở trang 14, Điều 30 tôi thấy quy định rất chung chung. Theo chúng tôi là nên có quy định cụ thể hơn, còn tạo điều kiện thuận lợi thì rất mơ hồ. Ở đây chúng tôi thấy hồ có quy mô, diện tích thích hợp thì thế nào là thích hợp, như vậy rất chung chung, hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ thuận lợi, đáp ứng yêu cầu hoạt động nghiên cứu. Chúng tôi thấy cần phải có quy định thể hiện rõ hơn cho những khu công nghệ cao này.

Cuối cùng, chúng tôi xin phát biểu về một số điều nghiêm cấm ở Điều 4, trang 8. Chúng tôi thấy phần lớn những điều quy định ở đây thì đúng rồi, nhưng xin các vị chú ý là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ công nghệ cao có nên cấm không. Theo tôi là đã có Luật sở hữu trí tuệ rồi thì chúng ta không nên ghi điều này vào, và thực sự nhiều khi để tiếp cận với những công nghệ cao của các nước, thì chúng ta có thể có rất nhiều cách, trong đó có cả những cách bí mật, nếu bây giờ chúng ta ghi vào là cấm thì anh em mình làm sao hoạt động để tiếp cận được những công nghệ cao của các nước. Tôi nghĩ là thôi điều này đã có Luật sở hữu trí tuệ quy định rồi thì mình không nên quy định ở đây nữa. Xin cảm ơn.
 
Đặng Huyền Thái  - TP Hà Nội 

Tôi cơ bản tán thành về Báo cáo giải trình tiếp thu chỉnh lý Dự thảo Luật công nghệ cao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa trình bày. Có thể nói việc Quốc hội sớm ban hành Luật công nghệ cao là một việc hết sức cần thiết và đáp ứng yêu cầu của đất nước, mong muốn tập trung nhiều nỗ lực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế một cách có hiệu quả. Tôi xin phép được tham gia và đóng góp một số ý kiến cụ thể sau đây về những vấn đề chung đa số ý kiến của các cử tri mong muốn định nghĩa rõ thế nào là công nghệ cao theo tiêu chuẩn hóa Việt Nam. Vấn đề chọn lĩnh vực công nghệ mới đề nghị Quốc hội nên xem xét tính khả thi khi thực hiện với các lĩnh vực trước đây trong luật cần được sắp xếp theo lĩnh vực được ưu tiên phát triển và có thể mỗi lĩnh vực nên chọn những ngành nghề mũi nhọn để tập trung. Một số nội dung của luật cần chắt lọc để không trùng lặp với Luật Khoa học công nghệ trước đây.

Đề nghị Quốc hội giám sát việc thực hiện Luật Khoa học công nghệ trước và hiệu quả đầu tư cho khoa học công nghệ trong những năm qua. Những ý kiến cụ thể:

Thứ nhất, về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao nên thêm vào và cụ thể hóa Điểm 3, Điều 4 về phát triển doanh nghiệp công nghệ cao và mời các thỉnh giảng, thực tập khoa học từ các nước công nghiệp vào Việt Nam cùng tham gia đào tạo nghiên cứu và phát triển. Đây là kinh nghiệm của nhiều nước đã phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản và Úc đã mời rất nhiều thỉnh giảng, thực tập tiến sỹ sang giảng dạy và làm việc ở các Học viện và trên trang Web của họ cũng có nhu cầu nhận các thỉnh giảng, thực tập tiến sỹ có kèm theo lương và phụ cấp.

Thứ ba, về sản phẩm công nghệ cao được ưu tiên khuyến khích, Điều 5, Điều 6 nên sắp xếp lại theo thứ tự tập trung đầu tư phát triển công nghệ cao như sau:
- Một là công nghệ thông tin
- Hai là công nghệ tự động hóa
- Ba là công nghệ vật liệu mới
- Bốn là công nghệ sinh học
Đây là những công nghệ có liên quan hệ thống với nhau, nhờ có công nghệ thông tin người ta mới có chương trình cho tự động hóa và khi có công nghệ thông tin, tự động hóa thì có thể rút ngắn được những vấn đề về nghiên cứu như trong vấn đề sinh học cũng vậy.

Thứ tư, về biện pháp thúc đẩy nghiên cứu và phát triển về công nghệ cao, Điều 12 nên bổ sung thêm một điểm trước Điểm 4 là chuyển các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia mà Nhà nước đã đầu tư thành các cơ sở nghiên cứu phát triển công nghệ cao có hiệu quả. Vừa qua chúng ta đã đầu tư một cách rất dàn trải với trên 3 triệu đô la đối với các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia nhưng hiệu quả hoạt động lại rất hạn chế và có nhiều nơi chỉ là nơi để cho du khách và khách đến thăm quan.
Thứ năm, về đầu tư mạo hiểm cho công nghệ cao nên bổ sung thêm ở Điều 21 "Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện cho các nhà khoa học lập doanh nghiệp mạo hiểm để triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu phát triển" Ở Việt Nam chúng ta hiện nay chưa khuyến khích cho phép công chức mở và làm Giám đốc Công ty tư nhân nên nhiều doanh nghiệp, công ty mạo hiểm, chưa đàng hoàng và cũng chưa có thể thực hiện một cách đầy đủ hoạt động của doanh nghiệp phát triển về khoa học và công nghệ cao.

Về Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao, Điều 22 xin được bổ sung Nhà nước khuyến khích, bảo lãnh cho các quỹ của người nước ngoài và liên doanh với người đã có ở Việt Nam tham gia đầu tư mạo hiểm cho các tổ chức, cá nhân, các nhà khoa học thành lập và phát triển doanh nghiệp mạo hiểm để triển khai công nghệ cao đã và đang nghiên cứu thành công.

Về nhân lực công nghệ cao, Điều 24 xin được bổ sung thêm Nhà nước nên khuyến khích kéo dài thời gian làm việc của công chức ít nhất là 70 tuổi và không nên phân biệt nam, nữ cho các nhà khoa học công nghệ cao phát minh, sáng chế đã có tích lũy, có đóng góp cho chuyên ngành và ưu đãi họ về thu nhập.

Điều 25, nên bổ sung thêm điểm Nhà nước khuyến khích ưu đãi và có điều kiện cho các nhà khoa học còn đương nhiệm, các nhà khoa học trẻ được đi thỉnh giảng thực tập tiến sỹ ở các nước công nghiệp phát triển khi họ được mời.

Điều 27, nên bổ sung thêm xây dựng một số học viện công nghệ cao, chuyển một số trường đại học đã có cơ sở về giảng dạy vừa nghiên cứu khoa học thành học viện theo cơ chế viện - trường hoặc trường đại học nghiên cứu khoa học.

Điều 28, đề nghị bổ sung thêm Nhà nước cần có kinh phí đầu tư cho các viện, trường đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ cao, các đề tài dự án khoa học công nghệ để mời các giáo sư, tiến sỹ thỉnh giảng thực tập tiến sỹ ở các nước công nghiệp phát triển vào Việt Nam làm việc.

Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ công nghệ cao, Nhà nước cần tập trung cho một số thành phố để thành lập các viện, trường đại học, doanh nghiệp và khu công nghệ cao.

Điều 29, bổ sung điểm chuyển các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia thành các doanh nghiệp công nghệ cao.

Về chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao Điều 20, chúng ta cần quan tâm đến làm thế nào để loại bỏ cơ chế xin - cho với các đề tài và các dự án, đây thực sự là một tồn tại khá lâu trong xã hội khoa học Việt Nam khi không ủng hộ nhau thường rất khó khăn vì vậy khó có điều kiện để chúng ta có thể phát triển được những nhân tài trên lĩnh vực này. Trên đây là một số ý kiến được tham gia đóng góp với Quốc hội. Xin trân trọng cảm ơn.
 
Trần Ngọc Vinh  - TP Hải Phòng 

Thứ nhất, dự án luật đã nêu được một số lĩnh vực cụ thể cần tập trung ưu tiên phát triển, song chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa các hoạt động chuyển giao, đào tạo nhân lực cho việc nghiên cứu phát triển công nghệ cao. Việc ưu tiên phát triển công nghệ cao cần phải được quy định trong từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời cần phải xác định rõ mối liên hệ giữa phát triển công nghệ cao của Việt Nam với việc ứng dụng công nghệ cao của thế giới để xác định được cơ chế, chính sách phù hợp cho việc khuyến khích phát triển công nghệ cao.

Về vấn đề cụ thể, đề nghị cần làm rõ và phân biệt khái niệm nguồn nhân lực cao và khái niệm nguồn nhân lực có chất lượng cao trong hoạt động công nghệ, vì quy định như Khoản 10 Điều 3 và Khoản 3 Điều 4 thực chất là giải nghĩa của nguồn nhân lực chất lượng cao trong hoạt động công nghệ. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét, chỉnh lý các vấn đề liên quan tại các điều của chương này.

Việc quy định cụ thể % tức là 5% số lao động có trình độ đại học trở lên tham gia nghiên cứu và phát triển sản phẩm của doanh nghiệp tại Điểm d Điều 17 là điều khó đối với các doanh nghiệp, vì có thể có trường hợp doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam không đủ 5% số lao động có trình độ đại học tham gia nghiên cứu do họ không có nhu cầu sử dụng nhưng vẫn đáp ứng tất cả các khoản quy định tại Điểm a, b, c, d, Khoản 1, Điều 17. Mặt khác những tiêu chí tại các Điểm c,d, Điều 17 là thấp và cần có sự phân biệt giữa nghiên cứu phát triển công nghệ cao với ứng dụng công nghệ cao.

Khái niệm về khu công nghệ cao tại Khoản 9, Điều 3 dự thảo luật này đã được đề cập và giải thích tại Khoản 22, Điều 3 của Luật đầu tư. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh lý lại nội dung này để có sự thống nhất trong cách hiểu và dễ dàng trong thực hiện.

Tại Khoản 3, Điều 8, dùng cụm từ hoặc sử dụng kết quả hoạt động công nghệ cao. Theo chúng tôi là không cần thiết vì cụm từ hoạt động công nghệ cao đã bao hàm cả ý nghĩa của sử dụng kết quả hoạt động công nghệ cao và để thống nhất với Khoản 1 và Khoản 2.

Tại Khoản 2, Điều 15, đề nghị nên viết lại như sau: Giao Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao thuộc các lĩnh vực công nghệ quy định tại Khoản 1, Điều 5 của luật này, nhằm tạo sự linh hoạt cho Chính phủ trong tổ chức thực hiện. 
 
Củng Thị Mẩy  - Hà Giang 

Trước tiên tôi nhất trí hoàn toàn với Báo cáo tiếp thu chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và dự thảo luật đã trình, tôi xin có một số ý kiến tham gia thên như sau.

Vấn đề thứ nhất, về công nghệ được ưu tiên đầu tư phát triển tại Điều 5 của Dự thảo luật, tôi cho rằng phát triển công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn cần có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện tình hình trong từng thời kỳ của đất nước và nhất trí với dự thảo về 4 lĩnh vực công nghệ cao mà Nhà nước ưu tiên phát triển, đó là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa.

Tuy nhiên như đã trình bày việc ưu tiên tập trung phát triển cần bám vào điều kiện thuận lợi và những tác động kinh tế xã hội của đất nước. Do đó cần xem xét bổ sung thêm lĩnh vực nông nghiệp, như nông - lâm - ngư nghiệp vào lĩnh vực cần ưu tiên phát triển, vì hiện nay nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân của nước ta.


Vấn đề thứ hai, về tổ chức khoa học và công nghệ, thành lập doanh nghiệp công nghệ cao , tôi cũng nhất trí với ý kiến của đại biểu Ly Kiều Vân là chúng ta xem xét việc giảng viên và cán bộ nghiên cứu mà thành lập doanh nghiệp thì trái với Điều 4 của Luật công chức, chúng tôi nhất với ý kiến đã giải trình.

Vấn đề thứ ba, về chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao tại Điều 20, hoạt động công nghệ cao là hoạt động mang tính đặc thù, khác với hoạt động công nghệ khác mang tính mạo hiểm và rủi ro cao. Chính vì vậy việc cụ thể hóa vào trong luật một chương trình quốc gia để phát triển công nghệ cao cũng là một đặc thù của luật so với luật khác chưa có quy định như vậy. Quy định như vậy càng khẳng định rõ vai trò công nghệ cao trong việc phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thể hiện rõ sự ưu tiên của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao. Tuy nhiên về nguồn tài chính để thực hiện chương trình tại Khoản 4, Điều 20, đề nghị cần phải xây dựng cho rõ và minh bạch hơn, đặc biệt là phần đóng góp của tổ chức, cá nhân nước ngoài và các tổ chức quốc tế.

Vấn đề thứ tư, tại Điều 8 về các hành vi cấm thì trong dự thảo có 7 hành vi cấm, tôi đặc biệt quan tâm đến Khoản 3, Điều 8 là quy định công nghệ cao hoặc sử dụng kết quả hoạt động công nghệ cao gây huỷ hoại môi trường và tài nguyên. Quy định như vậy trong hành vi cấm nếu như vi phạm những điều cấm trên thì biện pháp xử lý như thế nào, trong luật chưa có quy định cụ thể. Tôi đề nghị trong thực tế hiện nay việc ô nhiêm môi trường và huỷ hoại tài nguyên nguy cơ ngày càng cao khi công nghệ cao ngày càng phát triển, như Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng có đề cập, do đó tôi đề nghị thêm một điều quy định về biện pháp xử lý đối với vấn đề này.

Ý kiến về là việc quản lý Nhà nước về công nghệ cao, trong dự thảo luật cũng đã quy định việc quản lý Nhà nước về công nghệ cao tại Điều 6, Điều 14, 29, 35. Tuy nhiên tôi thấy quy định như vậy cũng dàn trải và chưa cụ thể, rõ ràng, do đó tôi đề nghị quy định cụ thể vào một điều tại Chương V, trong đó quy định rõ ràng, cụ thể về các nội dung quản lý Nhà nước về công nghệ cao, cơ quan quản lý Nhà nước về công nghệ cao nhằm triển khai chặt chẽ, khoa học và có trách nhiệm, có hiệu quả Luật công nghệ cao. Tôi xin hết ý kiến.
 
Nguyễn Trung Nhân  - TP Cần Thơ 

Về cơ bản tôi tán thành và thống nhất với dự thảo luật đã trình và Báo cáo chỉnh lý, tiếp thu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tôi có chuẩn bị nhiều ý kiến nhưng đã trùng với một số ý kiến khác nên tôi không nói lại, tôi chỉ xin phép góp ý vào một nội dung. Đó là nội dung tại Điều 6 về sản phẩm công nghệ có được khuyến khích đầu tư.

Tôi nghĩ rằng trong toàn bộ dự thảo luật này thì Điều 6 là điều quan trọng, nó quy định toàn bộ các lĩnh vực mà luật này điều chỉnh để có thể ưu tiên, khuyến khích phát triển lĩnh vực công nghệ cao. Tôi cũng nhất trí Khoản 1 quy định một trong bốn tiêu chí để xét nằm vào danh mục khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, tại Mục 2 quy định về danh mục ưu tiên khuyến khích phát triển thì tôi rất mong Quốc hội được quyền quyết định danh mục này. Bởi vì hàng năm Quốc hội họp 2 lần, nếu có gì thay đổi tôi nghĩ cũng quyết định kịp thời. Cho nên nếu Quốc hội giữ được quyền ban hành danh mục này hàng năm hoặc 2 năm 1 lần thì sẽ tốt hơn. Như luật này quy định giao cho Chính phủ quyết định về danh mục sản phẩm công nghệ được ưu tiên đầu tư. Đương nhiên dự thảo này có thể được chỉnh sửa sau này nữa, nhưng khi đưa ra sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực viễn thông, công nghệ thông tin tôi nhất trí với đại biểu Thuyết là chúng ta trong điều kiện đất nước còn khó khăn thì việc đầu tư những lĩnh vực ứng dụng chúng ta sẽ có nhiều điều kiện hơn, phát triển nhanh hơn. Trong này chúng ta đầu tư rất nhiều lĩnh vực, theo quy định về viễn thông và công nghệ thông tin thì 17 lĩnh vực khác nhau mà ta ưu tiên đầu tư, trong đó có những lĩnh vực hiện nay ta chưa phát triển gì cả, nếu chúng ta đầu tư từ đầu thì rất tốn kém có khi hiệu quả không cao, không đảm bảo 1 trong 4 tiêu chí tại Điều 6.

Một vấn đề nữa là trong lĩnh vực công nghệ thông tin mà chúng ta đầu tư hiện nay có những lĩnh vực chúng ta có khả năng làm và nó tạo nên hiệu quả kinh tế rất lớn, đó là chúng ta ưu tiên đầu tư cho những sản phẩm phần mềm mà chúng ta ứng dụng trong soạn thảo văn bản trong văn phòng, bảng tính toán word và excel. Kỳ vừa qua chúng ta đã đầu tư khoảng 150 tỷ mua phần mềm soạn thảo văn bản. Thật sự hiện nay công nghệ phát triển rồi, đặc biệt là mã nguồn mở thì chúng ta có thể ứng dụng để tiết kiệm chi phí rất lớn. Tại sao chúng ta không đưa lĩnh vực nghiên cứu và phát triển các phần mềm thuần Việt trên mã nguồn mở để chúng ta soạn thảo văn bản, tính toán và một số ứng dụng khác. Hiện nay chúng ta có khả năng rất nhiều, tôi nghĩ phần đó đầu tư ít thôi nhưng hiệu quả rất lớn.

Vừa qua Bộ Thông và tin truyền thông đã yêu cầu các địa phương xây dựng chương trình phát triển về công nghiệp công nghệ thông tin, trong đó quy định rõ ràng có 3 lĩnh vực đó là phần cứng, phần mềm và nội dung số. Trong danh mục này chủ yếu đề cập đến phần cứng và phần mềm, không nói nhiều về nội dung số. Tôi nghĩ đây là lĩnh vực rất lợi thế, Việt Nam ta hiện nay  đang phát triển và rất cần những sản phẩm về nội dung số vì cả cơ sở dữ liệu lớn quốc gia về nhân sự, tư pháp, về đất đai, nhân lực liên quan đến sử dụng công nghệ GES trong quản lý, về môi trường v.v... tất cả những cái đó đều là công nghệ nội dung số và nhiều thứ nữa có thể ứng dụng và phát triển mà chúng ta không để trong danh mục này, tôi nghĩ nên bổ sung. Vì cái này là hướng dẫn của Chính phủ cho nên chúng ta còn thời gian, hy vọng Chính phủ xem xét, bổ sung vấn đề này vào để khi chúng ta đưa bộ luật này vào ứng dụng thì chúng ta có thể làm ngay, làm nhanh để phát huy đầu tư của đất nước trong lĩnh vực công nghệ cao. Xin hết.
 
Dương Kim Anh  - Trà Vinh 

Bản dự thảo Luật công nghệ cao đã được Ban soạn thảo tiếp thu chỉnh sửa và Báo cáo giải trình tiếp thu chỉnh lý Luật công nghệ cao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 6/10/2008 có sự điều chỉnh, chỉnh sửa hợp lý, rõ và cụ thể hơn ở một số điều khoản, nhất là một số điều khoản đã được các đại biểu Quốc hội tham gia góp ý ở Kỳ họp thứ 3, như những vấn đề chính sách ưu tiên phát triển công nghệ cao, về đào tạo nguồn nhân lực.v.v.. đã được chỉnh sửa theo tinh thần các văn kiện của Đảng nhất là quan điểm của Nghị quyết Trung ương 7 Khóa X về "xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", điều đó thể hiện được trách nhiệm và sự nghiêm túc của Ban soạn thảo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Theo tôi dự thảo Luật công nghệ cao lần này đã thể hiện được một số cơ chế chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế, đất đai, nguồn lực tài chính vừa của ngân sách nhà nước vừa huy động thành lập quỹ, điều quan trọng là tập trung phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao đi đôi với chính sách và biện pháp. Đây là những vấn đề tổ chức, cá nhân đang cần để làm cơ sở cho sự quyết định đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng, tôn tạo và phát triển công nghệ cao của họ, nhưng đi vào từng điều khoản tôi thấy có một số điều khoản vừa cụ thể nhưng cũng vừa chung chung. Tôi có suy nghĩ có thể do Ban soạn thảo quá chú trọng thể hiện cho được quan điểm cơ bản phát triển công nghệ mà các văn kiện của Đảng đã nêu vào luật, nên trong dự thảo Luật công nghệ cao thể hiện rất rõ vừa có tính định hướng, vừa có tính nguyên tắc, có mục tiêu.vv.....

Ví dụ, Điều 4 Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao ở Khoản 1 có quy định, huy động mọi nguồn lực đầu tư áp dụng đồng bộ các chính sách khuyến khích ưu đãi ở mức cao nhất về thuế, về đất đai và các cơ chế tài chính khác v.v.... Hoặc như ở Điều 30 quy định về điều kiện thành lập khu công nghệ cao vừa cụ thể, vừa chung chung, vừa định hướng, vừa có mục đích. Nếu quy định như vậy rất khó thực hiện, đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉnh sửa để dễ thực hiện.
Ở Chương IV quy định về nhân lực công nghệ cao, tôi đề nghị dự luật nên có thêm một điều khoản quy định Nhà nước phải có kế hoạch lâu dài trong quy hoạch, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực công nghệ cao. Tôi xin hết ý kiến, cảm ơn Quốc hội.
 
Nguyễn Đức Hiền  - Quảng Ngãi 

Trước hết về cơ bản tôi tán thành với Báo cáo giải trình, tiếp thu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật công nghệ cao. Tôi nhận thấy rằng dự án luật đã được chuẩn bị công phu, đã tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp trước. Về cơ bản tôi nhận thấy rằng dự án luật đã có đủ điều kiện để Quốc hội chúng ta thông qua tại kỳ họp này. Sau đây tôi xin được góp ý kiến trực tiếp vào Điều 4 là chính sách của Nhà nước đối với hoạt động công nghệ cao.
Về cơ bản những nội dung này tôi rất tán thành với ý kiến của đại biểu Nguyễn Minh Thuyết - Đoàn Lạng Sơn đã nêu. Tôi nghĩ điều này đã rất cơ bản nêu được những chính sách của Nhà nước chúng ta đối với phát triển công nghệ cao, tuy nhiên tôi xin đề nghị thêm hai nội dung:

Vấn đề thứ nhất, tôi nghĩ rằng tại Khoản 4 điều này có lẽ chúng ta nên thêm vào mục khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động công nghệ cao. Tôi nghĩ rằng nếu chỉ nói nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ cao thì chưa đủ. Bởi vì đối với doanh nghiệp thì chúng ta cần phải có đầu tư hoạt động rất nhiều về lĩnh vực công nghệ cao này, nhất là trong đó chúng ta đã dành quĩ về phát triển khoa học công nghệ ở trong các doanh nghiệp và các doanh nghiệp có thể đầu tư phục vụ việc nghiên cứu. Nên về cơ bản tôi nghĩ cần phải có thêm khuyến khích đầu tư vào hoạt động công nghệ cao đối với các doanh nghiệp.

Vấn đề thứ hai, về mặt kỹ thuật văn bản. Trong Điều 4, chúng ta đề ra có 5 khoản, tôi thấy rất nhiều khoản. Tuy nhiên, khi mà đọc các khoản này thì có những vấn đề trùng lắp với nhau. Ví dụ tôi nghĩ rằng ở Khoản 1 khi nói huy động mọi nguồn lực đầu tư áp dụng đồng bộ các chính sách khuyến khích ưu đãi ở mức cao nhất về thuế, đất đai và các cơ chế tài chính khác cho hoạt động công nghệ cao. Tại khoản 5 điều này cũng nói là dành ngân sách Nhà nước và cơ chế tài chính đặc biệt để thực hiện. Tôi nghĩ cần phải có một thiết kế để gom vào một lĩnh vực. Vì thế tôi đề nghị về điều này chỉ nên thiết kế thành 3 khoản theo thứ tự:

Thứ nhất, Nhà nước có cơ chế chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện để làm sao phát triển công nghệ cao.
Thứ hai, tập trung nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao.
Thứ ba, là huy động mọi nguồn lực cho công nghệ cao.

Theo đó tôi xin được thiết kế lại như thế này, xin đọc để báo cáo với Quốc hội tham khảo.

Thứ nhất, khoản 1 là thực hiện cơ chế biện pháp đặc thù để xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ, đẩy nhanh việc ứng dụng nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ cao v.v... cho đến cung ứng toàn cầu và đưa một đoạn của Khoản 1, tức là nhằm phát huy vai trò chủ đạo của công nghệ cao trong phát triển khoa học công nghệ v.v... cho đến hết là của nhân dân vào Khoản 1 của điều này. Tức là chuyển Khoản 2 lên Khoản 1 và đưa một đoạn cuối của Khoản 1 vào cuối của Khoản 2 và trở thành Khoản 1. Khoản 2 vẫn giữ nguyên như trong Dự thảo hiện hành. Khoản 3 chúng tôi xin được đề nghị là đưa đoạn đầu của Khoản 1 tức là huy động mọi nguồn lực đầu tư, áp dụng đồng bộ các chính sách khuyến khích ưu đãi ở mức cao nhất về thuế đất đai và các cơ chế tài chính khác cho hoạt động công nghệ cao và sau đó đưa nội dung của Khoản 5 tiếp vào đây, tức là dành ngân sách Nhà nước và cơ chế tài chính đặc biệt để thực hiện những nhiệm vụ chương trình dự án về công nghệ cao cho hết khoản này. Và tiếp đó đưa luôn là khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động công nghệ cao, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ cao v.v... cho đến hết khoản này.

Như vậy tôi nghĩ rằng nên thiết kế lại còn 3 khoản và gồm tất cả những nội dung liên quan đến từng vấn đề vào từng khoản để hợp lý hơn. Xin cảm ơn Quốc hội.
 
Trần Đình Nhã  - Bà Rịa - Vũng Tàu 

Tôi chỉ tham gia một số vấn đề xung quanh Điều 28 là thu hút sử dụng nhân lực công nghệ cao, điều này được rất nhiều các chuyên gia cũng như người có kỹ năng, kỹ thuật quan tâm. Tôi thấy trong điều này nếu căn cứ vào Khoản 1 thì ở đây chỉ mới có chính sách thu hút sử dụng nhân lực công nghệ cao đối với người có năng lực và trình độ cao, người có trình độ và năng lực cao, người có kỹ năng kỹ thuật giỏi, lực lượng trẻ xuất sắc thì được thêm một số cơ chế. Còn những nhân lực khác chưa chứng minh được khả năng của mình thì có được hưởng chính sách này không? Tôi thấy ở đây là có vấn đề, bởi vì theo Khoản 10, Điều 3 thì nhân lực công nghệ cao chúng ta lại định nghĩa gồm những người có trình độ và kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu phát triển ứng dụng công nghệ cao, quản lý hoạt động công nghệ cao, vận hành thiết bị và dây chuyền sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Trong lúc đó các biện pháp thực hiện cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt thì chỉ đối với những người có kỹ năng đặc biệt, xuất sắc thì mới được hưởng cơ chế này. Số đông còn lại sẽ hỏi có được hưởng cơ chế này hay không?

Vấn đề thứ hai, các biện pháp thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi đặc biệt tôi thấy thực ra chưa có gì lớn như đảm bảo tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm, cái này tôi thấy cũng là chuyện thường tình, đáng lẽ phải là ưu tiên về chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm, có chế độ đặc biệt như thế, tạo điều kiện tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về công nghệ cao, bổ nhiệm vào vị trí chủ trì các nhiệm vụ khoa học công nghệ. Chúng tôi nghĩ đây cũng không phải là vấn đề ghê gớm gì, có thể đây cũng không nên ưu tiên, bởi vì những người có khả năng họ tự tìm cho mình những điều kiện này, không phải cứ bổ nhiệm vào vị trí chủ trì mới thể hiện được tài năng, không phải tạo điều kiện tham gia hợp tác quốc tế về công nghệ cao là điều người ta quan tâm, tôi không nghĩ thế. Trong lúc đó các nhà khoa học công nghệ quan tâm đến những vấn đề như không phân biệt đối xử về tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và thậm chí về quốc tịch, người ta quan tâm đến điều ấy. Cũng có vấn đề bây giờ là chúng ta đang ưu tiên cho những người có quốc tịch nước ngoài, trong đó những cán bộ khoa học người Việt cũng làm như thế, cũng cống hiến như thế nhưng không được ưu tiên vì là người nhà mình. Ở đây tôi nghĩ trong quy định của luật phải thể hiện bình đẳng, không phân biệt đối xử, ưu tiên theo cống hiến, theo tài năng, theo công việc. Đề nghị mối quan tâm của đại biểu phát biểu trước là vấn đề về kéo dài tuổi nghỉ hưu, về chế độ cũng nên quy định vào Điều 28.

Tôi đề nghị viết lại Điều 28. Khoản 1 nếu chúng ta thu hút sử dụng nhân lực công nghệ cao thì ngay cả chỗ thu hút lực lượng trẻ xuất sắc được tào đạo trong nước và nước ngoài. Tôi nghĩ không nhất thiết thêm đoạn "được đào tạo trong nước và nước ngoài", miễn đây là thế hệ trẻ xuất sắc, thậm chí chưa được đào tạo cũng phải thu hút. Chỉ cần chúng ta có chính sách như thế nào đấy để thu hút được lực lượng trẻ xuất sắc tham gia hoạt động công nghệ cao tại Việt Nam thế là đủ. Điều 28 tôi xin có một số ý kiến như vậy.

Điều 34 hướng dẫn thi hành, tôi đề nghị phải chỉnh lại điều này theo đúng ý kiến mà nhiều đại biểu Quốc hội phát biểu khi tham gia Luật Đa dạng sinh học, xin cảm ơn Quốc hội.
 
Nguyễn Viết Lểnh  - Bình Định 

Chúng tôi nhất trí cao với giải trình, tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với Dự án Luật Công nghệ cao. Chúng tôi chỉ xin phát biểu thêm một số ý kiến để làm rõ chính sách của Nhà nước đối với công nghệ.
Thứ nhất, chúng tôi góp ý trực tiếp vào Điều 5. Điều 5 nếu ghi tên luật và ghi nội dung ở dưới thì nó chưa rõ nên chúng tôi đề nghị Khoản 1 thay cụm từ "tập trung" bằng "Nhà nước ưu tiên" để rõ là nhà nước ưu tiên phát triển công nghệ cao trong các lĩnh vực sau.

Điều 6 chúng tôi xin bổ sung cụm từ "Nhà nước", tức là Khoản 1 quy định sản phẩm công nghệ cao được Nhà nước khuyến khích phát triển, vì ghi như hiện nay nó chưa rõ.

Điều 7 chúng tôi thấy tên luật với nội dung ở dưới chưa rõ, có những điều luật tên điều thì nói rõ nội dung nhưng có những điều luật ở dưới sẽ chứng minh nội dung ở trên, nhưng ở Điều 7 chúng tôi thấy nó chưa rõ, chúng tôi đề nghị riêng điều này nên có câu mở đầu. Tên điều chúng tôi nhất trí giữ nhưng nên có câu mở đầu là "Nhà nước thực hiện các chính sách hợp tác quốc tế về công nghệ cao như sau:", nếu không mở đầu toàn bộ điều luật đọc luôn các khoản đó nó không rõ.

Điều 10 đề nghị thiết kế lại như sau: Tên điều chúng tôi nhất trí là biện pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao, chúng tôi xin sửa lại như sau: Nhà nước thực hiện các biện pháp sau đây để tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ cao quy định tại Khoản 2, Điều 9 của Luật này. Một là dành mức ưu đãi cao nhất về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Khoản 2 là "Hỗ trợ chi phí từ kinh phí của chương trình phát triển quốc gia công nghệ cao và từ kinh phí khác có nguồn gốc từ ngân sách".

Khoản 3 xin giữ nguyên. Xin hết.
 
Nguyễn Lân Dũng  - Đắc Lắk 

Tôi thấy bản dự thảo này rất đầy đủ và chi tiết nên cẩn thận tham khảo ý kiến các đại biểu Quốc hội, không nên sửa lại theo mọi ý kiến mà cá nhân các đại biểu đề nghị.

Ý kiến thứ hai, cần có cơ chế để đảm bảo tính khoa học của công nghiệp công nghệ cao. Chúng tôi rất hoan nghênh vì có công nghiệp công nghệ cao, ví dụ như công nghệ sinh học chúng ta tìm được rất nhiều chủng vi sinh vật có giá trị cao nhưng lại không có công nghiệp công nghệ sinh học cho nên không sản xuất được. Cần có cơ chế đảm bảo tính khoa học của công nghiệp công nghệ cao, ví dụ cồn nhiên liệu là ưu tiên của công nghiệp công nghệ cao nhưng dự án đầu tư cho Phú Thọ 80 triệu đô la để sắn, rỉ đường thì hoàn toàn phi lý đó là các nguyên liệu làm ra các sản phẩm công nghệ sinh học cao giá trị hơn nhiều. Cồn nếu cất từ rượu thủ công  từ 35 độ lên cồn tuyệt đối thì làm gì cần đến 80 triệu đôla.

Ý kiến thứ ba, về Quỹ đầu tư mạo hiểm nên mạnh dạn cho các chuyên gia công nghệ cao vay kinh phí dễ dàng, nếu dám đảm bảo xuất toán khi không hoàn thành nhiệm vụ.

Ý kiến thứ tư, hoan nghênh có dự thảo nghị định của Chính phủ để luật sớm đưa vào cuộc sống. Nhân cơ hội này xin được bổ sung trong danh mục sản phẩm công nghệ sinh học một vài chuyện thuốc kháng sinh xin đi kèm vitamin, ưu tiên vitamin C, B2 và B12. Các thuốc tăng cường miễn dịch sản xuất bằng công nghệ lên men, các sản phẩm Probiotic thúc đẩy chăn nuôi thủy sản, các chế phẩm dầu dinh dưỡng không phải chỉ từ động vật, thực vật mà cả từ vi sinh vật và thiết kế, chế tạo dây chuyền xử lý chất thải nên nói là có sử dụng công nghệ sinh học, chứ công nghệ sinh học không làm được thiết kế và chế tạo dây chuyền. Xin kính trình Quốc hội xem xét, xin cảm ơn.
 
Đinh Văn Nhã  - Phú Yên  

Tôi xin phát biểu một ý kiến tại Khoản 2, Điều 25 có quy định chi phí của các tổ chức, cá nhân cho việc thu hút chuyên gia công nghệ cao tham gia đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nhân lực thì được tính vào chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tôi đề nghị bỏ khoản này, bởi vì theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp vừa được Quốc hội thông qua thì Quốc hội đã biểu quyết là không quy định chi tiết về các khoản chi phí hợp lý, thay vào đó chỉ quy định các khoản chi phí không được trừ. Do đó đương nhiên nội dung quy định của dự thảo luật này tại Điều 2 là các khoản chi phí hợp lý không cần thiết phải quy định. Xin cảm ơn Quốc hội.
 
Hứa Chu Khem  - Sóc Trăng 

Về vấn đề thứ nhất, thời gian để Luật Công nghệ cao có hiệu lực thi hành, về vấn đề này tôi thấy khó có khả năng có hiệu lực từ tháng 7 năm 2009 được. Trong bản giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ở trang 7 nói là những chính sách ưu đãi về thuế thì chỉ được chỉnh sửa theo như những văn bản nằm trong luật thuế. Như vậy khi luật này chúng ta bấm nút để có hiệu lực thi hành thì quy định tháng 7/2009 thì thực hiện được chúng tôi thấy là khó.

Thứ nhất, bây giờ từ đây tới đó Quốc hội còn họp một kỳ thứ năm để có thể sửa lại một số luật có liên quan. Trước đây trong dự thảo trước đưa về cho các đoàn thảo luận có đề ra tới 16 vấn đề phải sửa luật, mà chỉ ghi ở Điều 33 là sửa chung, bây giờ ta bỏ nó ra để sửa riêng từng luật mà nếu có liên quan. Nếu như những vấn đề nó thuộc về khả năng điều hành của cơ quan hành pháp thì Chính phủ có thể sửa ngay nghị định được, còn nếu luật thì cái này phải có một kỳ họp Quốc hội tới là Kỳ thứ năm. Mà nếu ta sửa rồi thì sau đó mới có thể hiệu lực thi hành được cho vấn đề của Luật công nghệ cao.

Về vấn đề này tôi thấy có liên quan ở trong luật có rất nhiều chỗ, thí dụ như Điều 4, rất nhiều khoản ưu đãi về thuế về đất đai. Ở Khoản 2, Điều 12, liên quan đến đất đai. Khoản 3,  Điều 16 liên quan Luật đấu thầu. Khoản 2, Điểm a, Điều 17, Điều 23 nó liên quan đến thuế thu nhập cá nhân. Tất cả những cái đó chúng ta nếu mà không sửa được luật ở Quốc hội thì Chính phủ không thể sửa được. Nên chúng tôi thấy rằng thời gian gọi là hiệu lực thi hành thì tháng 7 sợ rằng khó khả thi, đề nghị cân nhắc và xem lại điều kiện này.

Vấn đề thứ hai, tôi xin tham gia là năng lượng mới, năng lượng công nghệ mới cũng nên xem để mà đưa vào bởi vì hiện nay trên thị trường và trên thế giới thì năng lượng đó đang là vấn đề rất bức xúc, rất nghiêm trọng, giá cả rồi các thứ mà chúng ta cũng nên khuyến khích  khai thác những nguồn năng lượng sạch và mới. Chẳng hạn như điện hạt nhân, điện gió.

Vấn đề Điều 28 chúng tôi thấy có nên sửa lại mấy ý để cho tập trung và nó có thực sự là thu hút nhân lực, chứ còn nếu ghi trong Điều 28 tôi cũng thấy ý kiến như đại biểu  Trần Đình Nhã đã phát biểu. Ở Điểm b và Điểm e chúng ta viết như vậy thì nó vẫn là bình thường thôi, bảo đảm lương và chế độ bảo hiểm hay là vấn đề được khen thưởng thì Luật thi đua khen thưởng đã quy định, cho nên đã là Luật công nghệ cao thì nó phải có điều gì đặc biệt hơn. xin hết
 
Nguyễn Đức Kiên  - Phó Chủ tịch Quốc hội 

Qua thảo luận ý kiến các đại biểu Quốc hội tập trung vào 4 nhóm vấn đề chính.
Một là xem xét để có thể quy định cụ thể hơn, xem xét bỏ hoặc bổ sung nội hàm một số điều khoản cho đủ, rõ ràng và chính xác hơn.
Thứ hai, về nhân lực xoay quanh vấn đề đào tạo, vấn đề chuyên gia và cơ chế chính sách ưu đãi đối với những đối tượng tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao.
Thứ ba, các vấn đề về thuế thì theo chỉ đạo chung là tất cả sẽ tập trung vào những vấn đề quy định trong pháp luật về thuế, để kịp phù hợp với việc áp dụng luật này, chúng ta xem xét nếu chưa đủ độ, thì có thể sửa tại một kỳ họp trong thời gian tới.
Thứ tư, về chính sách ưu đãi cao nhất, cơ chế chính sách đặc thù, cách thức, đối tượng ưu tiên, ưu đãi như thế nào sẽ được nghiên cứu để bổ sung vào dự án luật hoặc trong hướng dẫn cụ thể của các nghị định của Chính phủ.
Vấn đề cuối cùng là cũng có thể có các vị đại biểu Quốc hội còn có những ý kiến hay, ý kiến mới nhưng chưa được phát biểu ý kiến cũng rất trân trọng đề nghị các vị đại biểu Quốc hội gửi ý kiến đó cho Đoàn thư ký, sau phiên họp hôm nay Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu một cách nghiêm túc, chu đáo để hoàn chỉnh báo cáo giải trình tiếp thu để Quốc hội thông qua ở phiên họp sau.

Các văn bản liên quan