Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia về pháp luật về giao dịch bảo đảm

Thứ Năm 14:56 05-10-2006

BÁO CÁO TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
 
Báo cáo này tổng hợp kết quả nghiên cứu, tham khảo các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm cả bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và bằng bất động sản của một số quốc gia, bao gồm:
·        Điều 9 Bộ quy tắc Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code) về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Điều 9 UCC);
·        Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai (Uniform Land Security Interest Act) của Hoa Kỳ;
·        Đạo luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada (sau đây gọi là PPSA-Personal Property Security Act);
·        Pháp luật về giao dịch bảo đảm của một số quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law như: Pháp, Liên bang Nga, Ba Lan;   I. NHẬN XÉT CHUNG
Về cơ bản, một số quốc gia như Hoa Kỳ, New Zealand và đa số các bang của Canada xây dựng hai hệ thống quy phạm riêng biệt cho các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng bất động sản. Hoa Kỳ tập trung các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản vào Điều 9 của Bộ Quy tắc thương mại thống nhất, được xem như một đạo luật riêng về giao dịch bảo đảm liên quan đến động sản. Bên cạnh đó là Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai và Đạo luật thống nhất về giao dịch đối với đất đai. Bang New Brunswick của Canada có Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và Luật về lợi ích bảo đảm bằng liên quan đến đất đai. New Zealand cũng xây dựng Đạo luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản (Personal Property Security Act). Ở Hoa Kỳ, New Zealand, một số bang của Canada, pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không điều chỉnh quan hệ bảo đảm đối nhân mà chủ yếu điều chỉnh quan hệ bảo đảm đối vật. Quan hệ bảo lãnh không được pháp luật quy định do đây chỉ là sự ghép nối giữa hai lợi ích bảo đảm: lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích bảo đảm giữa con nợ với bên bảo lãnh cho con nợ. Vì vậy pháp luật sẽ điều chỉnh theo từng lợi ích bảo đảm.
Các quốc gia thuộc hệ thống Civil Law như Pháp, Liên bang Nga… có hệ thống pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khá khác biệt. Các quốc gia này vẫn xây dựng hệ thống quy phạm chung về giao dịch bảo đảm, bao gồm các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và bằng bất động sản. Các quy định này tập trung  chủ yếu trong Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ MỘT SỐ QUỐC GIA
1. Phạm vi điều chỉnh
Hai hệ thống pháp luật nói trên có sự khác biệt cơ bản về phạm vi điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, các quy định về giao dịch bảo đảm có phạm vi điều chỉnh khá hẹp, giới hạn đối với một số biện pháp bảo đảm cụ thể là như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ…; trong đó cầm cố và thế chấp là hai biện pháp phổ biến hơn cả. Ngay về  hai biện pháp bảo đảm phổ biến là cầm cố và thế chấp, cũng có sự khác biệt trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói trên. Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Pháp phân định các biện pháp cầm cố và thế chấp được thực hiện trên cơ sở yếu tố chuyển giao tài sản bảo đảm. Điều 2017 và Điều 2114 Bộ luật Dân sự Pháp, “Cầm cố là một hợp đồng theo đó người có nghĩa vụ giao cho người có quyền một tài sản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, còn “quyền thế chấp là quyền trên những bất động sản được sử dụng vào việc thi hành một nghĩa vụ”. Tuy nhiên, việc phân định biện pháp cầm cố và thế chấp này không hoàn toàn dựa trên tiêu chí chuyển giao tài sản, mà cũng phần nào dựa trên tiêu chí loại tài sản, theo đó cầm cố có thể thực hiện cả đối với động sản và bất động sản, còn thế chấp chỉ được áp dụng hạn chế đối với một số loại bất động sản tài sản đặc biệt.
Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Cộng hòa liên bang Nga lại phân biệt cầm cố và thế chấp thuần túy theo tiêu chí loại tài sản, theo đó, biện pháp cầm cố được áp dụng đối với động sản và biện pháp thế chấp được thực hiện đối với bất động sản. Việc phân biệt này không được quy định trực tiếp, mà được thể hiện gián tiếp tại khoản 2 Điều 334 Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Nga: “Việc cầm cố thửa đất, doanh nghiệp, công trình xây dựng, công trình kiến trúc, căn hộ chung cư và các bất động sản khác (thế chấp) được điều chỉnh theo quy định của Luật về Thế chấp tài sản. Các nguyên tắc về cầm cố quy định trong Bộ luật này được áp dụng đối với thế chấp, trừ trường hợp Bộ luật này hoặc Luật về Thế chấp tài sản có quy định khác”
Trái với các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, tại các quốc gia theo hệ thống Common Law như Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada, các quy định về giao dịch bảo đảm có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm các giao dịch bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp và các giao dịch có tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như thỏa thuận bán hàng có bảo lưu quyền sở hữu, cho thuê động sản dài hạn… Pháp luật về bảo đảm thực hiện ở các quốc gia này đều coi lợi ích bảo đảm là nguồn gốc của mọi giao dịch bảo đảm khác. Các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp… chỉ là cách thể hiện cụ thể của lợi ích bảo đảm. Điều 9 UCC không giải thích khái niệm “lợi ích bảo đảm”, tuy nhiên trên cơ sở Điều 9 UCC, New Zealand và một số bang của Canada đã cụ thể hóa khái niệm này trong Luật về bảo đảm của mình. Điều 2(ar) Luật về bảo đảm của bang Nova Scotia – Canada quy định như sau:
“Lợi ích bảo đảm được hiểu là:
(i) lợi ích gắn với động sản nhằm bảo đảm cho một khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng không bao gồm lợi ích của người bán hàng trong việc chuyển hàng đến cho người mua hàng theo vận đơn hoặc các văn bản tương tựcủa người bán, hoặc của người đại diện của người bán, trừ trường hợp các bên có những bằng chứng chứng minh rằng đã có ý định xác lập hoặc cung cấp một lợi ích bảo đảm trên/gắn với hàng hóa đó; và
(ii) lợi ích của:
(A) người giao tài sản  cho bên nhận tài sản theo hợp đồng  gửi bán thương mại
(B) bên cho thuê theo hợp đồng cho thuê có thời hạn trên một năm.
(C) bên được chuyển giao theo tài khoản chuyển giao hoặc theo chứng thư bảo đảm (chattel paper).
(D) người mua theo việc mua bán không chuyển giao tài sản và không bảo đảm cho khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ”
Điều 17 Luật về bảo đảm của NewZealand-NewZealand PPSA cũng có khái niệm “lợi ích bảo đảm” tương tự:
“1) Theo Luật này, cụm từ “lợi ích bảo đảm” được hiểu như sau:
(a) là lợi ích đối với động sản được xác lập hoặc cung cấp thông qua  giao dịch nhằm bảo đảm cho một khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ, không  phụ thuộc vào:
(i) hình thức của giao dịch; và
(ii) nhân thân của người có quyền với tài sản bảo đảm; và
(b) bao gồm lợi ích được xác lập hoặc cung cấp thông qua việc chuyển giao tài khoản nợ hoặc chứng thư bảo đảm, việc thuê có thời hạn trên một năm, và ký gửi thương mại (bất kể việc chuyển giao, thuê hay ký gửi đó có bảo đảm cho khoản nợ hoặc cho việc thực hiện nghĩa vụ hay không).
(2) Bên có nghĩa vụ theo tài khoản nợ có thể được phải thực hiện lợi ích bảo đảm  trên tài khoản nợ mà  người này có nghĩa vụ phải thanh toán.
(3) Để tránh hạn chế các quy định của khoản (1), cũng như để tránh nhầm lẫn, Luật này áp dụng cả với các nghĩa vụ đặc định/cố định, nghĩa vụ  luân chuyển, thế chấp động sản, hợp đồng mua bán có điều kiện (bao gồm cả hợp đồng mua bán  có bảo lưu quyền), hợp đồng thuê mua, cầm cố, nhận ủy thác có bảo đảm, ủy thác tiếp nhận, gửi bán, cho thuê và hợp đồng, hoặc hợp đồng sửa chữa tài sản, bảo đảm cho việc trả tiền hoặc thực hiện nghĩa vụ”
Với tư duy pháp luật coi lợi ích bảo đảm là “gốc” của mọi giao dịch bảo đảm, pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Hoa Kỳ, New Zealand và một số bang của Canada không điều chỉnh các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp.v.v… mà điều chỉnh về lợi ích bảo đảm và các vấn đề liên quan đến việc thực hiện lợi ích bảo đảm. Do đó, tất cả các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm, không phụ thuộc vào tên gọi của giao dịch, đều thuộc phạm vi áp dụng của pháp luật về bảo đảm của các quốc gia này. Chính vì vậy, bên cạnh các giao dịch bảo đảm truyền thống như cầm cố, thế chấp, pháp luật về bảo đảm của các quốc gia này còn được áp dụng với các giao dịch khác có tính chất bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như thuê mua tài chính, gửi bán thương mại, chuyển nhượng nợ, cho thuê tài sản dài hạn.v.v… Các giao dịch làm phát sinh lợi ích bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ được gọi chung là giao dịch bảo đảm.
2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm
Pháp luật về giao dịch bảo đảm của cả hai hệ thống pháp luật nói trên đều có quy định tách biệt và rõ ràng về hai loại hiệu lực của giao dịch bảo đảm, đó là hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối với các bên tham gia giao dịch (sau đây gọi là hiệu lực giữa các bên) và hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối kháng với người thứ ba (sau đây gọi là hiệu lực với bên thứ ba).
2.1. Hiệu lực của lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law
Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch
Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law xác định thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực là thời điểm các bên tham gia giao dịch thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, hoặc thời điểm các bên ký kết hợp giữa các bên. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia này, do lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nên vấn đề được quan tâm nhiều hơn là xác định thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attach to collateral). Nguyên nhân là lợi ích bảo đảm được xem là vấn đề mấu chốt của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ở Hoa Kỳ, New Zealand, một số bang của Canada nói riêng và các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law nói chung. Đồng thời, hiệu lực của hợp đồng (thường phát sinh vào thời điểm các bên ký kết hợp đồng) trong nhiều trường hợp chưa hẳn đã làm phát sinh hiệu lực trên thực tế của lợi ích bảo đảm (ví dụ: cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai…). Lợi ích bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực trên thực tế khi được “gắn liền” (attach) với tài sản bảo đảm. Kể từ thời điểm đó, quyền của con nợ đối với tài sản bảo đảm bị hạn chế, lợi ích của chủ nợ được bảo đảm một cách chắc chắn hơn và những mối nguy có thể phát sinh từ bên thứ ba được giảm thiểu. Vì vậy, thời điểm lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm là một nội dung quan trọng trong pháp luật về bảo đảm của các quốc gia nêu trên.
Trong trường hợp tài sản bảo đảm là động sản, Điều 9-203 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada đều quy định lợi ích bảo đảm “gắn” với tài sản bảo đảm nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây:
 (1) Bên nhận bảo đảm trao cho bên bảo đảm một khoản giá trị.[1]
 (2) Con nợ có quyền đối với tài sản bảo đảm, hoặc có quyền chuyển giao các quyền liên quan đến tài sản cho bên nhận bảo đảm.
 (3) Các bên ký kết hợp đồng bảo đảm, trong đó có mô tả tài sản bảo đảm.
Đối với trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản, quy định về việc lợi ích bảo đảm “gắn liền” với tài sản bảo đảm cũng tương tự như đối với động sản. Mục 203 Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm đối với đất đai quy định việc lợi ích bảo đảm gắn liền với bất động sản như sau: “Lợi ích bảo đảm gắn với bất động sản khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận trì hoãn thời điểm lợi ích bảo đảm gắn liền với bất động sản:
1. Con nợ ký hợp đồng bảo đảm, trong đó có mô tả tài sản bảo đảm;
2. Một khoản giá trị đã được trao[2];
3. Con nợ có quyền đối với tài sản bảo đảm”.
Đồng thời, cũng theo quy định tại Mục 203 của Đạo luật này, thì lợi ích bảo đảm chỉ có hiệu lực thi hành đối với con nợ liên quan đến tài sản bảo đảm khi lợi ích bảo đảm này đã gắn liền với tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên, khi đáp ứng các điều kiện nói trên, thì lợi ích bảo đảm cũng chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch, chứ không đương nhiên có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba sau khi được hoàn thiện, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Đối với các trường hợp ngoại lệ này, lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thú ba ngay từ thời điểm gắn liền với tài sản bảo đảm.
Hiệu lực đối kháng với bên thứ ba
Lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba sau khi được hoàn thiện (perfect). Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (perfection of security interest) được hiểu là việc công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho người thứ ba được biết. Sau khi hoàn thiện, người thứ ba tham gia giao dịch bảo đảm được coi là biết và có nghĩa vụ phải biết về sự tồn tại của lợi ích bảo đảm. Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan tới tài sản bảo đảm. Trong trường hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào được hoàn thiện trước sẽ được ưu tiên thực hiện.
Theo các quy định tại Điều 9 UCC và các quy định tương tự tại Luật về bảo đảm của Canada và New Zealand, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện sau khi đã gắn liền với tài sản bảo đảm, và chủ nợ có bảo đảm thực hiện hoàn thiện theo một trong các phương thức sau: chiếm hữu tài sản bảo đảm, kiểm soát tài sản bảo đảm hoặc đăng ký lợi ích bảo đảm. Về lý thuyết, một lợi ích bảo đảm có thể được hoàn thiện bằng nhiều phương thức. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra trên thực tế. Các bên tham gia giao dịch thường tùy vào loại tài sản bảo đảm để lựa chọn phương thức hoàn thiện thích hợp.
- Hoàn thiện bằng cách chiếm hữu tài sản bảo đảm: chủ nợ sẽ chiếm hữu tài sản bảo đảm trong các trường hợp: cầm cố động sản; khi con nợ giao tài sản cho bên thứ ba để bảo quản thay cho chủ nợ; khi chủ nợ hoặc đại diện của chủ nợ  chiếm hữu giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với vật đó. Hoàn thiện bằng cách chiếm hữu phù hợp và thường được áp dụng đối với những lợi ích bảo đảm liên quan đến hàng hóa, dụng cụ, văn bản thỏa thuận, tiền và chứng thư tín dụng (chattel paper).
- Hoàn thiện bằng cách kiểm soát tài sản bảo đảm: phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp lợi ích bảo đảm liên quan đến tài khoản tiền gửi, thư tín dụng cổ phiếu, chứng khoán và các loại giấy tờ tương tự như cổ phiếu phát hành không có biên lai hoặc kỳ phiếu, trái phiếu của Nhà nước không phát hành dưới dạng in ấn. Các tài sản này được coi là tài sản vô hình, chỉ tồn tại trong hồ sơ của người phát hành hoặc của ngân hàng. Trong trường hợp này, lợi ích bảo đảm được hoàn thiện bằng cách chuyển giao một quyền dành riêng cho con nợ, cho phép con nợ trao những hướng dẫn chuyển giao cho bên thứ ba đang quản lý tài sản đó. Theo các quy định tại Điều 9 UCC, hoàn thiện bằng phương thức kiểm soát chỉ được áp dụng khi bên nhận bảo đảm là chính ngân hàng nơi có tài sản bảo đảm là tài khoản tiền gửi, bên nhận bảo đảm, ngân hàng, bên bảo đảm có thỏa thuận về việc ngân hàng thay mặt bên nhận bảo đảm kiểm soát tài sản bảo đảm đó
- Hoàn thiện bằng cách đăng ký lợi ích bảo đảm: cho đến nay hầu hết các lợi ích bảo đảm đều được hoàn thiện theo cách này. Biện pháp đăng ký được áp dụng đối với lợi ích bảo đảm trên tất cả các loại tài sản và là biện pháp được khuyến khích nhằm xác lập thứ tự ưu tiên, ngoại trừ những lợi ích bảo đảm được hoàn thiện theo cách thủ đắc quyền sở hữu và những lợi ích bảo đảm tự động hoàn thiện hoặc không cần phải hoàn thiện. Thực chất, phương pháp này là một loại đăng ký thông báo nhằm xác định thứ tự ưu tiên của các chủ nợ.
- Lợi ích bảo đảm tự động hoàn thiện: Ngoài ba phương thức để hoàn thiện một lợi ích bảo đảm nêu trên, Điều 9 UCC, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada còn quy định một số trường hợp theo đó lợi ích bảo đảm được tự động hoàn thiện tại thời điểm lợi ích bảo đảm phát sinh hiệu lực trên thực tế gắn liền với tài sản bảo đảm Tài sản bảo đảm trong trường hợp này chỉ có thể là một số loại tài sản nhất định, ví dụ như: tiền mua hàng đối với hàng hóa tiêu dùng, ngoại trừ những trường hợp liên quan đến hàng tiêu dùng là đối tượng của các đạo luật hoặc Hiệp ước; việc chuyển nhượng nợ; bán giấy hẹn thanh toán (promisory notes); chuyển nhượng yêu cầu thanh toán bảo hiểm sức khỏe cho người cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ chăm sóc sức khỏe; vận chuyển tài sản tài chính; lợi ích bảo đảm trong tài sản đầu tư  được xác lập bởi người môi giới;.v.v…
2.2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law
Hiệu lực giữa các bên tham gia giao dịch
Trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, hiệu lực của giao dịch bảo đảm được xác định căn cứ vào quy định về hiệu lực của hợp đồng. Một số quốc gia không quy định cụ thể về thời điểm hợp đồng có hiệu lực, mà chỉ quy định về các điều kiện chủ yếu để hợp đồng có hiệu lực, theo đó, hợp đồng được coi là có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Theo quy định tại Điều 1108 Bộ luật dân sự Pháp, “hợp đồng chỉ có hiệu lực đã thỏa mãn đầy đủ bốn điều kiện chủ yếu:
- Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện;
- Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng;
- Đối tượng của hợp đồng phải được xác định;
- Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp”
Đồng thời, Điều 1134 Bộ luật dân sự Pháp cũng quy định về hiệu lực của nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng: “Hợp đồng được giao kết có giá trị là luật đối với các bên giao kết”.  Căn cứ vào các quy định này, có thể xác định trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của Pháp, giao dịch bảo đảm được coi là có hiệu lực giữa các bên nếu hợp đồng bảo đảm đáp ứng đầy đủ các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, và từ thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp đặc biệt, hiệu lực của quyền phát sinh từ hợp đồng bảo đảm chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ quy định về hình thức. Tiêu biểu là hiệu lực của quyền thế chấp theo thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch. Quyền thế chấp theo thỏa thuận chỉ có hiệu lực khi được công chứng. Điều 2127 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Thế chấp theo thỏa thuận chỉ có thể thực hiện dưới hình thức văn bản công chứng trước hai công chứng viên  hoặc một công chứng viên và hai người làm chứng”.
Hiệu lực đối với bên thứ ba
Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law không có khái niệm “hoàn thiện” tương tự như pháp luật của các quốc gia theo hệ thống Common Law, cũng không quy định trực tiếp về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của giao dịch bảo đảm, mà quy định gián tiếp thông qua quyền ưu tiên và hiệu lực đối kháng với người thứ ba của quyền ưu tiên này. Cũng khác với pháp luật của các quốc gia theo hệ thống Common Law, pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống Civil Law chỉ quy định một phương thức duy nhất để giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, hay nói cách khác, để quyền ưu tiên phát sinh từ giao dịch bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba là thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền. Phương thức này được áp dụng thống nhất đối với cả động sản và bất động sản. Điều 2073 Bộ luật Dân sự Pháp quy định “Với việc cầm cố động sản, người có quyền được thanh toán nghĩa vụ bằng tài sản là đối tượng cầm cố, do có quyền ưu tiên so với những người có quyền khác”. Điều 2074 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Quyền ưu tiên này chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba khi đã có văn bản công chứng hoặc tư chứng thư được đăng ký hợp lệ, trong đó ghi rõ số tiền nợ cũng như chủng loại và tính chất của tài sản cầm cố hoặc bản kê chất lượng, số lượng và kích thước tài sản cầm cố đính kèm văn bản”. Đối với thế chấp cũng có quy định tuơng tự. Điều 2134 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Giữa những người có quyền, việc thế chấp, dù là thế chấp theo luật định, theo bản án hay theo thỏa thuận chỉ được xếp thứ tự căn cứ vào ngày tháng người có quyền tiến hành đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo thể thức do pháp luật quy định. Nếu nhiều đăng ký thế chấp được thực hiện cùng một ngày đối với một bất động sản, thì căn cứ vào ngày tháng của chứng thư đăng ký, đăng ký thế chấp nào sớm hơn sẽ được xếp ở hàng trước dù thứ tự trong sổ đăng ký quy định tại Điều 2200 như thế nào”.  
3. Thứ tự ưu tiên
3.1. Quy định về thứ tự ưu tiên của các lợi ích bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law
Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law quy định về thứ tự ưu tiên (priority order) của các lợi ích bảo đảm khá phức tạp, theo đó, thứ tự ưu tiên của một lợi ích bảo đảm được hiểu là thứ tự ưu tiên thực hiện quyền đó đối với tài sản bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản đó trong trường hợp con nợ vi phạm cam kết về thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc thỏa thuận bảo đảm. Mặc dù hệ thống quy định về thứ tự ưu tiên trong Điều 9 Bộ quy tắc thương mại thống nhất của Hoa Kỳ, Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản của New Zealand và một số bang của Canada khá phức tạp như đã nói trên, nhưng chúng tuân thủ những nguyên tắc cơ bản nhằm xác định thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích bảo đảm cùng liên quan đến một tài sản, cụ thể là:
- Đối với cùng một tài sản bảo đảm, lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện luôn có thứ tự ưu tiên cao hơn lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện.
- Giữa hai lợi ích bảo đảm đã hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự hoàn thiện lợi ích bảo đảm (thứ tự đăng ký, chiếm hữu hoặc hoàn thiện tạm thời).
- Giữa các lợi ích bảo đảm chưa hoàn thiện, thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự lợi ích bảo đảm phát sinh trên thực tế gắn với tài sản bảo đảm (attachment).
Nguyên tắc này cũng được áp dụng để xác định thứ tự ưu tiên giữa các lơi ích bảo đảm liên quan đến bất động sản. Mục 301 Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai cũng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các lợi ích bảo đảm theo nguyên tắc này, cụ thể là:
“Nếu hai lợi ích bảo đảm cùng chưa được hoàn thiện thì lợi ích bảo đảm nào “gắn liền” với bất động sản là tài sản bảo đảm trước sẽ có thứ tự ưu tiên cao hơn.
Thứ tự ưu tiên giữa hai lợi ích bảo đảm đã được hoàn thiện sẽ được pháp luật về hoàn thiện và thứ tự ưu tiên điều chỉnh”.
3.2. Quy định về thứ tự ưu tiên giữa các quyền ưu tiên trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law
Như đã trình bày ở trên, trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, thứ tự ưu tiên giữa các quyền ưu tiên liên quan đến cùng một tài sản được xác định theo một tiêu chí duy nhất là thứ tự đăng ký tại Phòng đăng ký giao dịch bảo đảm. Quy định này được áp dụng chung đối với cả các quyền ưu tiên liên quan đến động sản và bất động sản. Điều 2074 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: "Quyền ưu đãi này chỉ có hiệu lực đối với người thứ ba khi có một công chứng thư hoặc tư chứng thư đăng ký hợp lệ, ghi rõ số tiền cũng như chủng loại và bản chất của tài sản đưa cầm cố hoặc một bản kê chất lượng, số lượng và kích thước của tài sản đó". Điều 2134 cũng quy định: "Giữa những người có quyền, quyền thế chấp dù là thế chấp theo luật định, thế chấp theo quyết định của Tòa án hay thế chấp theo thoả thuận, chỉ được xếp thứ hạng kể từ ngày người có quyền đăng ký tại cơ quan đăng ký quản thủ theo đúng thể thức do pháp luật quy định".
4. Tài sản bảo đảm
4.1. Tài sản bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law
Về cơ bản, pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law được chia thành 2 hệ thống vụ chủ yếu, áp dụng riêng rẽ đối với việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng bất động sản. Nói cách khác, đối với tài sản bảo đảm, tùy thuộc tính chất tài sản là động sản hay bất động sản mà áp dụng quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau. Theo pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia này, phạm vi tài sản bảo đảm được quy định rất rộng. Đối với động sản, mọi tài sản được phép giao dịch đều có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm, bao gồm cả tài sản vô hình và tài sản hữu hình, tài sản hiện có và hình thành trong tương lai. Ngoài ra, do pháp luật của các quốc gia này sử dụng khái niệm “lợi ích bảo đảm” (security interest) gắn với tài sản bảo đảm, mà không quy định về các biện pháp bảo đảm cụ thể, nên phạm vi các tài sản bảo đảm còn được mở rộng hơn nữa. Khoản 12 tiết 9-102 Điều 9 Bộ Quy tắc thương mại thống nhất của Hoa Kỳ đưa ra khái niệm “Tài sản bảo đảm”:
Tài sản bảo đảm là những tài sản là đối tượng của lợi ích bảo đảm hoặc quyền cầm giữ nông nghiệp. Thuật ngữ này bao gồm cả:
- Khoản lợi thu được từ những tài sản mà lợi ích bảo đảm gắn liền;
- Khoản nợ, chứng thư bảo đảm, tiền trả cho quyền sử dụng tài sản vô hình, giấy hẹn trả tiền được chuyển nhượng;
- Hàng hoá đem bán ký gửi”
Có thể thấy đối với động sản, khái niệm “tài sản bảo đảm” được hiểu rất rộng, không chỉ là một hoặc một số đối tượng tài sản cụ thể, mà còn bao gồm cả các khoản lợi thu được từ tài sản bảo đảm. Thuật ngữ “khoản lợi” (proceeds) cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ khoản tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm, mà còn bao gồm cả những tài sản hình thành từ việc bán tài sản bảo đảm này.
Đối với bất động sản, phạm vi các tài sản bảo đảm cũng khá rộng. Khoản 3 Mục III Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai (Uniform Land Security Act) của Hoa Kỳ đưa ra khái niệm về tài sản bảo đảm:
“Tài sản bảo đảm là bất động sản là đối tượng của lợi ích bảo đảm”[3]
Đồng thời, khoản 20 Mục III này cũng đưa ra khái niệm về bất động sản:
“Bất động sản là bất cứ tài sản hoặc lợi ích nào ở trong, ở trên hoặc ở dưới đất, bao gồm cả khoáng sản, công trình kiến trúc, bất động sản do dụng đích, hoặc bất cứ thứ gì mà theo thói quen, theo thông lệ hoặc theo quy định của pháp luật được chuyển nhượng kèm theo đất đai dù không được mô tả trong hợp đồng mua bán hoặc chứng thư chuyển nhượng, và, nếu phù hợp với văn cảnh, cả đất có liên quan đến lợi ích bảo đảm. “Bất động sản” bao gồm cả tiền thuê, lợi ích của chủ đất hoặc chủ nhà, và lợi ích nằm trong lợi ích chung của cộng đồng, trừ trường hợp các luật khác coi lợi ích đó là động sản”.
4.2. Tài sản bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law
Trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, tùy thuộc từng biện pháp bảo đảm cụ thể, sẽ có phạm vi tài sản được sử dụng làm tài sản bảo đảm khác nhau. Việc phân định phạm vi tài sản bảo đảm chủ yếu được thực hiện đối với hai biện pháp bảo đảm chính là cầm cố và thế chấp. Đối với cầm cố,  tùy thuộc từng quốc gia mà phạm vi tài sản bảo đảm có thể rất rộng hoặc hẹp hơn. Theo pháp luật về giao dịch bảo đảm của Ba Lan, biện pháp cầm cố chỉ được áp dụng đối với động sản. Bộ luật Dân sự Ba Lan quy định: “Động sản có thể được đem cầm cố để bảo đảm cho khoản nợ” (Khoản 1 Điều 306) và “Quyền, nếu có thể chuyển giao được, cũng có thể trở thành tài sản cầm cố” (Điều 327). Trong khi đó, pháp luật về giao dịch bảo đảm của Pháp quy định phạm vi tài sản cầm cố rộng hơn, bao gồm cả động sản và bất động sản. Điều 2071 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Cầm cố là một hợp đồng theo đó người có nghĩa vụ trao cho người có quyền một vật nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ”. Đồng thời, Điều 2072 quy định: “Vật bảo đảm cho nghĩa vụ là động sản thì gọi là cầm cố động sản, là bất động sản thì gọi là cầm cố bất động sản”.
Trong khi đó, đối với thế chấp, phạm vi tài sản bảo đảm bị giới hạn hơn nhiều, chỉ bao gồm các bất động sản. Đồng thời, phạm vi các bất động sản được sử dụng để thế chấp cũng bị hạn chế. Các bất động sản này cũng phải  đáp ứng một số các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Điều 2118 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Chỉ có thể đem thế chấp:
- Những bất động sản trong thương mại và những vật vụ của bất động sản được coi là bất động sản;
- Quyền hưởng hoa lợi trên một tài sản và những vật phụ trong thời gian có quyền hưởng hoa lợi”
Điều 2119 cũng quy định: “Động sản không thể đem thế chấp”
Pháp luật về giao dịch bảo đảm của Cộng hòa liên bang Nga cũng xác định phạm vi tài sản bảo đảm tương tự. Khoản 2 Điều 334 Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Nga: “Việc cầm cố thửa đất, doanh nghiệp, công trình xây dựng, công trình kiến trúc, căn hộ chung cư và các bất động sản khác (thế chấp) được điều chỉnh theo quy định của Luật về Thế chấp tài sản. Các nguyên tắc về cầm cố quy định trong Bộ luật này được áp dụng đối với thế chấp, trừ trường hợp Bộ luật này hoặc Luật về Thế chấp tài sản có quy định khác”.
Luật về Thế chấp tài sản của Liên bang Nga quy định một số điều kiện đối với tài sản bảo đảm, theo đó, chỉ có một số bất động sản sau mới được sử dùng làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ:
- Các thửa đất (ngoại trừ đất thuộc sở hữu nhà nước, đất nông nghiệp hoặc đất quá nhỏ không thể đem thế chấp được)
- Xí nghiệp (các quyền tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh), nhà xưởng, công trình xây dựng và các động sản khác kèm theo (tài sản theo dụng đích).
- Nhà ở, căn hộ (một phần hoặc toàn phần)
- Nhà ở nông thôn, vườn, nhà kho, ga-ra và các công trình xây dựng khác được thiết kế để bán.
- Tàu bay, tàu thủy, tàu thủy nội địa và các vật ngoài không gian (các tài sản này được coi là bất động sản theo quy định tại Bộ luật Dân sự)
5. Xử lý tài sản bảo đảm
5.1. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law
Điều 9 UCC, Luật về bảo đảm bằng động sản ở một số bang của Canada và New Zealand, Đạo luật thống nhất về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai đều quy định việc áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp “Default”. “Default” là thuật ngữ chỉ tình trạng bên có nghĩa vụ bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ bao gồm cả nghĩa vụ trả nợ và các nghĩa vụ khác theo thoả thuận giữa các bên. Trong trường hợp này, chủ nợ có bảo đảm sẽ được phép thực thi quyền của mình trên tài sản bảo đảm. Phương thức xử lý tài sản bảo đảm phổ biến nhất là chủ nợ có bảo đảm chủ động tịch thu tài sản theo thỏa thuận trước đó hoặc yêu cầu tòa án ra lệnh cho phép tịch thu tài sản. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm có mối liên hệ chặt chẽ với luật thủ tục, theo đó Tòa án có thể căn cứ hợp đồng bảo đảm và thông tin đăng ký giao dịch bảo đảm để thực hiện thủ tục xét xử rút gọn, lập tức ra quyết định cho phép bên nhận bảo đảm thu hồi tài sản bảo đảm. Các quyền khác được pháp luật trao cho chủ nợ có bảo đảm bao gồm: quyền lấy lại tài sản bảo đảm, quyền bán tài sản, quyền nhận tài sản bảo đảm thay cho việc trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ. Việc bán tài sản có thể theo thủ tục công khai hoặc không công khai, tùy vào thỏa thuận của các bên. Một vấn đề quan trọng là pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law nói trên rất tập trung vào nguyên tắc: "bán tài sản bảo đảm một cách hợp lý về mặt thương mại" trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Theo nguyên tắc này, chủ nợ có bảo đảm được xử lý tài sản bảo đảm nếu tiến hành bán tài sản bảo đảm thì phải bán tài sản này theo phương thức hợp lý nhất, phù hợp với quy luật của thị trường liên quan đến loại tài sản đó. Nguyên tắc này được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm trong trường hợp chủ nợ có bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ, tránh tình trạng chủ nợ có bảo đảm lạm dụng quyền xử lý tài sản để bán rẻ tài sản bảo đảm gây thiệt hại cho bên bảo đảm.
5.2. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law
Trái với các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law như đã nêu trên, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law không cho phép chủ nợ có bảo đảm (bên nhận bảo đảm) trực tiếp giữ tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ, hoặc trực tiếp bán tài sản bảo đảm ra thị trường. Pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia theo hệ thống Civil Law chỉ cho phép chủ nợ có bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm thông qua việc bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, việc bán đấu giá này cũng chỉ được thực hiện khi có phán quyết của Tòa án. Quy định này được áp dụng chung đối với việc xử lý tài sản bảo đảm là động sản, cũng như bất động sản. Điều 2078 Bộ luật dân sự Pháp  quy định về xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ đối với trường hợp cầm cố động sản như sau: "Trong trường hợp người có nghĩa vụ không được thực hiện nghĩa vụ, người có quyền không thể định đoạt vật cầm cố mà chỉ có thể đề nghị Toà án ra lệnh dùng tài sản cầm cố để thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi nghĩa vụ, sau khi giám định viên định giá tài sản hoặc sau khi đem đấu giá tài sản cầm cố.
Mọi điều khoản cho phép người có quyền chiếm giữ hoặc định đoạt vật cầm cố không theo những quy định nêu trên đều vô hiệu".Đối với trường hợp cầm cố bất động sản, quy định về xử lý tài sản cầm cố tại Điều 2088 cũng tương tự như đối với cầm cố động sản: "Người có quyền không thể trở thành chủ sở hữu của bất động sản chỉ do việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn thỏa thuận; mọi điều khoản trái lại đều vô hiệu. Trong trường  hợp ấy, người có quyền có thể kiện xin truất hữu người có nghĩa vụ theo quy định của pháp luật".  

[1] Khoản giá trị này có thể là tiền, tài sản, hoặc cam kết thực hiện một công việc.

[2] Được hiểu là chủ nợ có bảo đảm (bên nhận bảo đảm) trao một khoản giá trị có thể là tiền, vật cho con nợ (bên bảo đảm) hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên này.

 

Các văn bản liên quan