Bản tổng hợp ý kiến góp ý của VCCI

Thứ Hai 14:29 28-03-2011

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

------------------------------

Số:  0674  /PTM-PC

V/v: góp ý Dự thảo Thông tư quy định về

 mạng lưới hoạt động NHTM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

----------------------------------

Hà Nội, ngày 25  tháng 03 năm 2011

 

Kính gửi: NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

 

Phúc đáp Công văn số 2053/NHNN-TTGSNH của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư quy định về mạng lưới hoạt động ngân hàng thương mại (sau đây gọi tắt là Dự thảo Thông tư), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến như sau:

1.       Về mạng lưới hoạt động

-         So với Quy định về Mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại, ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), thì khái niệm “mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại” tại khoản 1 Điều 3 trong Dự thảo Thông tư đã bị thu hẹp lại, cụ thể là không bao gồm sở giao dịch, phòng giao dịch, ATM, điểm giao dịch. Đề nghị Dự thảo Thông tư xem lại tính hợp lý của quy định này, tuy quy định phòng giao dịch, ATM là một loại hình chi nhánh nhưng lại được điều chỉnh bằng những nội dung riêng, hầu như không cùng với đặc điểm của chi nhánh. Đặc biệt là cụm từ “chi nhánh”, khi thì được sử dụng với nghĩa bao hàm cả phòng giao dịch, khi lại chỉ được sử dụng riêng, rất khó phân biệt trong toàn bộ nội dung Dự thảo Thông tư;

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định rõ, nếu quy định phòng giao dịch và ATM là loại hình chi nhánh (khoản 5 và 6 Điều 3 Dự thảo Thông tư) thì có phải đăng ký hoạt động tại cơ quan đăng ký kinh doanh không? Hơn nữa, ATM chỉ là thiết bị được ngân hàng thương mại sử dụng để cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ ngân hàng. Trong khi đó chi nhánh là 1 đơn vị thực hiện hoạt động kinh doanh theo ủy quyền của ngân hàng thương mại. Do đó, quy định ATM là loại hình chi nhánh là chưa đúng bản chất. Ngoài ra, đề nghị Dự thảo Thông tư ghi rõ tên gọi đầy đủ trước khi viết tắt ATM;

-         Theo Dự thảo Thông tư, phòng giao dịch không thuộc mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại (khoản 6 Dự thảo Thông tư) nhưng vẫn quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục thành lập như một bộ phận riêng biệt trong mạng lưới hoạt động. Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định rõ phòng giao dịch có thể thuộc chi nhánh hay bắt buộc phải trực thuộc ngân hàng;

Do vậy, đề nghị chỉ nên bỏ quỹ tiết kiệm, còn giữ nguyên mạng lưới hoạt động như Quyết định 13/2008/QĐ-NHNN và không nên định nghĩa phòng giao dịch, ATM là loại hình chi nhánh.

2.       Về phạm vi hoạt động của đơn vị sự nghiệp và phòng giao dịch

-         Về đơn vị sự nghiệp (khoản 4 Điều 3 Dự thảo Thông tư): Theo quy định của Dự thảo Thông tư, một trong những hoạt động hỗ trợ hoạt động kinh doanh theo ủy quyền của ngân hàng thương mại mà đơn vị sự nghiệp được phép là “Xử lý tập trung một số nghiệp vụ ngân hàng, cung ứng cho khách hàng một số dịch vụ liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại”. Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định rõ các dịch vụ liên quan mà đơn vị sự nghiệp được phép cung ứng cho khách hàng là những dịch vụ nào để tránh vướng mắc khi thực hiện;

-         Về hoạt động của phòng giao dịch (khoản 6 Điều 3 Dự thảo Thông tư): Đề nghị Dự thảo Thông tư nâng hạn mức tối đa được cho vay lên 5 tỷ đồng Việt Nam thay vì mức 2 tỷ đồng đã đặt ra cách đây 3 năm và đề nghị bỏ cụm từ “không vượt quá” tại đoạn “Cho vay tối đa không vượt quá 2 tỷ đồng Việt Nam”, vì “tối đa” đã bao hàm nghĩa “không vượt quá”.

3.       Về Thẩm quyền của NHNN (Điều 4)

Đề nghị Dự thảo Thông tư bổ sung thẩm quyền của NHNN trong trường hợp thay đổi địa điểm của Văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài, trường hợp thay đổi tên, địa điểm đặt trụ sở chi nhánh ở nước ngoài quy định tại Điều 4.

4.       Về Nguyên tắc lập hồ sơ (Điều 6)

Khoản 1 Điều 6 Dự thảo Thông tư quy định “các bản dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt phải được cơ quan có thẩm quyền chứng thực theo quy định của pháp luật” là chưa đầy đủ. Đề nghị Dự thảo Thông tư sửa quy định là “các bản dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt…”.

5.       Về tên và kết cấu của Chương II

Nội dung chính của Dự thảo Thông tư là điều chỉnh về thành lập, khai trương và chấm dứt hoạt mạng lưới hoạt động, vì vậy đề nghị chuyển các Mục 1, 2 và 3 tại Chương này về “Quy định cụ thể” thành các chương sau:

-         Chương II. Điều kiện, thủ tục, hồ sơ thành lập Chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp và mở ATM (thay cho tên mục I hiện nay là “Mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại”);

-         Chương III. Khai trương hoạt động, thay đổi tên, địa điểm, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp;

-         Chương IV. Chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, ATM, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp.

6.       Về Điều kiện thành lập chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại (Điều 7)

-         Liên quan đến điều kiện “…trong năm liền kề năm đề nghị, không bị xử phạt hành chính dưới hình thức phạt tiền và phạt bổ sung đối với vi phạm hành chính về:…” (điểm e khoản 2 Điều 7 Dự thảo Thông tư) đề nghị Dự thảo Thông tư quy định một mức phạt cụ thể, thay vì quy định là phạt tiền với mọi mức đã không đủ điều kiện để được phép thành lập mạng lưới hoạt động;

-         Theo điểm g khoản 2, Điều 7  thì chức danh Giám đốc chi nhánh phải đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Các TCTD và không kiêm nhiệm chức danh nào tại các chi nhánh khác của ngân hàng thương mại. Như vậy, Giám đốc chi nhánh  có được kiêm nhiệm thêm các chức danh khác trong chi nhánh không? Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định rõ;

-         Khoản 3 Điều 7 Dự thảo Thông tư quy định NHNN chỉ xem xét đề nghị của ngân hàng thương mại khi nước sở tại (nơi TCTD dự kiến thành lập Chi nhánh) có thỏa thuận hợp tác thanh tra, giám sát với cơ quan thanh tra NHVN là phù hợp. Tuy nhiên, NHNN cần thông báo danh sách quốc gia có thỏa thuận hợp tác để ngân hàng thương mại chủ động trong việc lập hồ sơ đề nghị NHNN xem xét. Ngoài ra, đề nghị bổ sung và quy định lại thành “Cơ quan thanh tra, giám sát (hoặc cơ quan tương đương)” để tránh trường hợp cơ quan thanh tra, giám sát của nước sở tại có tên gọi khác;

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư sửa đổi “thời gian” thành “thời hạn” tại trong cụm từ “Trong thời gian sáu tháng” tại khoản 1 Điều 7. Đồng thời đề nghị sửa các từ tương tự tại khoản 2 Điều 7, điểm b khoản 3 Điều 11, khoản 1 Điều 19,…).

7.       Về hồ sơ đề nghị thành lập chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại (Điều 8)

-         Khoản 3 Điều 8 Dự thảo Thông tư quy định trong hồ sơ mở chi nhánh, ngân hàng thương mại phải có văn bản chứng minh việc ngân hàng thương mại sẽ có quyền sử dụng hợp pháp địa điểm dự kiến mở chi nhánh. Theo Dự thảo Thông tư, việc NHNN xem xét, cấp phép mở chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại mất nhiều thời gian (chi nhánh là 27 ngày làm việc, phòng giao dịch là 22 ngày làm việc), chưa kể thời gian gửi hồ sơ, thời gian xử lý thực tế sẽ từ 1 đến 1,5 tháng. Nếu các ngân hàng thương mại chỉ ký các văn bản nguyên tắc hoặc hợp đồng thuê địa điểm trước nhưng chưa ký hợp đồng thuê chính thức hoặc kéo dài thời gian ký hợp đồng hầu hết sẽ không được chủ cho thuê địa điểm chấp thuận; nếu ký hợp đồng thuê hoặc mua trụ sở, trường hợp NHNN từ chối việc cấp giấy phép mở chi nhánh, phòng giao dịch càng gây tốn kém nhiều chi phí hơn và rất khó khăn trong việc xử lý các trụ sở đã thuê hoặc đầu tư. Do vậy, đề nghị Dự thảo Thông tư quy định việc này vào điều kiện khai trương hoạt đông chi nhánh cụ thể như sau: “sau khi được NHNN chấp thuận, ngân hàng thương mại phải gửi văn bản chứng minh có quyền sử dụng hợp pháp địa điểm mở chi nhánh, phòng giao dịch”. Như vậy bộ hồ sơ đề nghị thành lập tại khoản 3 Điều 8 chỉ nên quy định là “dự kiến điểm đặt của trụ sở chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp”;

-         Khoản 4 Điều 8 Dự thảo Thông tư quy định “các văn bản chứng minh Giám đốc chi nhánh hoặc các chức danh tương đương dự kiến đảm bảo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 7 Thông tư này”. Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định cụ thể các văn bản chứng minh gồm các tài liệu nào, do đơn vị nào chịu trách nhiệm cung cấp?

8.       Về Thủ tục đề nghị Thống đốc NHNN chấp thuận việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp (Điều 9)

-         Đối với Văn bản của Ngân hàng thương mại đề nghị  NHNN chấp thuận việc thành lập chi nhánh (khoản 1 Điều 9): Đề nghị Dự thảo Thông tư quy định rõ Văn bản đề nghị của ngân hàng thương mại là văn bản cụ thể nào đối với mỗi loại hình xin thành lập, là đề án (đối với hồ sơ xin mở chi nhánh) hay phương án kinh doanh (đối với hồ sơ xin mở phòng giao dịch) hay dạng đơn đề nghị khác. Nếu là dạng đơn đề nghị, cần quy định rõ áp dụng theo mẫu nào và đưa vào phần phụ lục như Quyết định 13/2008/QĐ-NHNN, tránh trường hợp Ngân hàng nhà nước tại các tỉnh/ thành phố yêu cầu sử dụng các mẫu khác nhau, gây phiền toái và mất nhiều thời gian chuẩn bị hồ sơ của ngân hàng thương mại;

-         Khoản 7 Điều 9 Dự thảo Thông tư quy định “trong thời hạn tối đa 1 năm kể từ ngày có văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước về việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, ngân hàng thương mại phải hoàn thành các thủ tục pháp lý, chuẩn bị cơ sở vật chất, nhân sự theo quy định của nước sở tại nơi thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện để khai trương hoạt động. Kết thúc thời hạn trên, ngân hàng thương mại chưa được cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cấp giấy phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước không còn giá trị”. Thực tế, mỗi một quốc gia sở tại có những quy định pháp luật khác nhau. Thời hạn 1 năm để hoàn thành thủ tục thành lập có thể thực hiện được ở nước này nhưng không thực hiện được ở nước khác. Khi đó, với quy định nếu không hoàn thành thủ tục trong thời hạn 1 năm thì văn bản chấp thuận của NHNN không còn giá trị nữa, vừa không phù hợp với thực tiễn, vừa gây khó khăn bất lợi cho ngân hàng thương mại trong việc đăng ký thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài. Đề nghị kéo dài thời hạn này và quy định một số trường hợp do phải thực hiện các quy định của nước sở tại sẽ không tính vào thời hạn này;

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư bỏ bớt từ “tối đa” trong đoạn “trong thời hạn tối đa năm (05) ngày làm việc” cho thống nhất trong toàn văn bản và vì “trong thời hạn” đã bao hàm nghĩa “tối đa”. Đồng thời đề nghị bỏ các từ “tối đa” tại các quy định tại khoản 3, 4, 5, 6, 7 Điều 9, khoản 2, 3 Điều 10, …

9.       Về Thủ tục đề nghị NHNN chi nhánh chấp thuận thành lập phòng giao dịch (Điều 10)

Đề nghị Dự thảo Thông tư bỏ quy định NHNN chi nhánh lấy ý kiến của NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính tại Điều 10, vì NHNN chi nhánh là cơ quan quản lý và đánh giá trực tiếp việc thành lập chi nhánh ngân hàng thương mại căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mình, còn trường hợp cần lấy ý kiến của NHNN chi nhánh nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính thì sẽ do NHNN trung ương tiến hành.

10.  Về Điều kiện, hồ sơ, thủ tục mở ATM (Điều 11)

-         Điểm b khoản 3 Điều 11 Dự thảo Thông tư quy định kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị mở ATM của ngân hàng thương mại, NHNN chi nhánh sẽ ra văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị. Như vậy, chỉ căn cứ vào văn bản đề nghị mà NHNN chi nhánh quyết định việc cho thành lập là không có cơ sở. Thực tế, còn phải dựa vào Quy định nội bộ bằng văn bản để quản lý ATM bảo đảm hoạt động an toàn theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, đề nghị sửa “kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị mở ATM...” thành “kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị mở ATM...”. Khi đó, hồ sơ mở đề nghị mở ATM đã bao gồm: văn bản đề nghị và quy định nội bộ quản lý ATM;

-         Đề nghị sửa điểm b khoản 3 Điều 11 Dự thảo Thông tư thành “b- Trong thời gian năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị mở ATM của ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh có văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị của đơn vị. Trường hợp không chấp thuận, văn bản phải nêu rõ lý do”. Sửa từ “văn bản đề nghị ” thành “hồ sơ đề nghị” vì nếu Ngân hàng nhà nước Chi nhánh chỉ căn cứ vào văn bản đề nghị để quyết định việc cho mở hay không cho mở là chưa đủ cơ sở.

11.  Về Khai trương hoạt động, thay đổi tên, địa điểm chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại (Điều 12)

-         Điểm d khoản 1 Điều 12 Dự thảo Thông tư quy định “Đăng báo trung ương và báo địa phương trong 3 số liên tiếp theo quy định của pháp luật”. Đề nghị bỏ đoạn “theo quy định của pháp luật” vì thực tế pháp luật chỉ quy định về việc đăng báo đối với doanh nghiệp, chứ không có quy định về việc đăng báo đối với chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp;

-         Điều 12 Dự thảo Thông tư quy định phòng giao dịch bắt buộc phải có kho quỹ đảm bảo an toàn ... (điểm i khoản 1) trên thực là khó khăn cho ngân hàng thương mại, do việc đầu tư kho tiền ”đảm bảo quy định của NHNN” tùy thuộc rất nhiều vào các điều kiện cụ thể của từng địa điểm mà không phải trụ sở của phòng giao dịch nào cũng thực hiện được (do trụ sở đi thuê, không được sửa chữa lớn). Vì vậy, đề nghị NHNN chỉ áp dụng quy định này đối với chi nhánh, còn phòng giao dịch thì chỉ khuyến khích những phòng giao dịch ở xa chi nhánh, khó chuyển tiền về chi nhánh trong ngày; các phòng giao dịch gần chi nhánh sẽ được điều chuyển tiền cuối ngày về kho tiền tại chi nhánh có kho quỹ đảm bảo tiêu chuẩn.

12.  Về Thay đổi tên, địa điểm đặt trụ sở của chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại ở trong nước (Điều 13)

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư bổ sung Nghị quyết của Hội đồng thành viên trong trường hợp là ngân hàng thương mại có mô hình là công ty trách nhiệm hữu hạn trong quy định về hồ sơ đề nghị thay đổi  tên, địa điểm chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng thương mại tại khoản 2;

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư sửa đổi “Điều 12 Khoản 1 Điểm a, b, c, d và e” thành “điểm a, b, c, d và e khoản 1, Điều 12 Thông tư này” tại khoản 4;

-         Đề nghị sửa “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” thành “Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động” tại khoản 6, vì chỉ ngân hàng mới có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (nay là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp), còn chi nhánh, phòng giao dịch,… chỉ có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Tương tự là tại khoản 1, Điều 14;

-         Trường hợp chi nhánh, phòng giao dịch không thay đổi địa điểm hoạt động, mà chỉ thay đổi địa chỉ của chi nhánh, phòng giao dịch do thay đổi tên địa danh hoặc thay đổi địa giới hành chính theo quyết định chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ, đổi tên, chia tách, sáp nhập tỉnh/quận huyện/phường xã/đường phố hay nâng cấp từ huyện lên thị xã, từ thị xã lên thành phố trực thuộc tỉnh … nơi chi nhánh, phòng giao dịch đang đặt trụ sở. Đề nghị, trong trường hợp này, đề nghị Dự thảo Thông tư quy định để ngân hàng thương mại được phép chủ động thực hiện đổi địa chỉ và làm các thủ tục pháp lý liên quan (đăng ký lại kinh doanh, khắc dấu …) và báo cáo NHNN mà không cần phải qua các bước trình NHNN như quy định tại Điều 13.

13.  Về Các trường hợp chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, ATM, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại (Điều 15)

Đề nghị Dự thảo Thông tư xem xét lại Tên điều luật là “các trường hợp chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, ATM, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại” không phù hợp với nội dung tại khoản 2 và khoản 3 về thẩm quyền giải quyết cũng như thủ tục chấm dứt hoạt động.

14.  Về Bắt buộc chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, ATM, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại (Điều 17)

-         Điểm a khoản 1 Điều 17 Dự thảo Thông tư, quy định trường hợp có bằng chứng chứng minh hồ sơ đề nghị thành lập chi nhánh, phòng giao dịch, ATM, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp có thông tin sai sự thật thì bị chấm dứt hoạt động. Đề nghị Dự thảo Thông tư xác định thông tin sai sự thật đến mức độ nào thì mới phải chấm dứt hoạt động, vì có thể nhiều thông tin tuy sai nhưng chỉ là do sơ suất hoặc không ảnh hưởng đáng kể đến bản chất vấn đề thì không cần thiết phải bắt buộc chấm dứt hoạt động;

-         Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 17 Dự thảo Thông tư thì ngân hàng thương mại cũng buộc phải chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch…khi khai trương  hoạt động không đủ điều kiện quy định. Đề nghị Dự thảo Thông tư xem xét lại điều kiện này. Điều kiện này nên chỉ phạt vi phạm hành chính và yêu cầu Ngân hàng thương mại khắc phục các điều kiện thiếu trong một thời hạn nhất định và báo cáo NHNN. Nếu trong thời hạn đó, ngân hàng thương mại không khắc phục được thì mới bắt buộc chấm dứt hoạt động. Hai nữa, việc khai trương hoạt động còn phải đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 3 Điều 12 Dự thảo Thông tư là chỉ được khai trương khi có văn bản xác nhận của NHNN Chi nhánh. Như vậy, Dự thảo Thông tư cũng cần quy định rõ đối với trường hợp mà ngân hàng thương mại vi phạm điều kiện khai trương nhưng có văn bản xác nhận của NHNN Chi nhánh đủ điều kiện khai trương thì xử lý như thế nào.

15.  Về Công bố chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại ở trong nước (Điều 18)

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư bổ sung cả việc công bố chấm dứt hoạt động ATM nữa để khách hàng biết. Và thông báo chấm dứt hoạt động của ATM chỉ cần dán ở nơi ATM là được mà không cần phải đăng báo như các chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện hay đơn vị sự nghiệp;

-         Đề nghị Dự thảo Thông tư sửa đổi cụm từ “đăng bố cáo” thành “đăng báo” cho thống nhất với các quy định khác của pháp luật.

16.  Về Hiệu lực thi hành (Điều 25)

Đề nghị hướng dẫn cụ thể đối với một số loại hình hoạt động như: Sở giao dịch, phòng giao dịch, ATM, điểm giao dịch đã thành lập và hoạt động trước ngày Thông tư này có hiệu lực thì sẽ được điều chỉnh bởi quy định nào, có phải thay đổi theo mô hình mới hay được tiếp tục hoạt động theo các văn bản hướng dẫn trước đó.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối Dự thảo Thông tư quy định về mạng lưới hoạt động ngân hàng thương mại. Rất mong cơ quan soạn thảo lưu ý xem xét, cân nhắc để hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

 

 

Nơi nhận:

-         Như trên;

-         Lưu VT, PC

 

T/L. CHỦ TỊCH

TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ

 

 

 

 

TRẦN HỮU HUỲNH

 

Các văn bản liên quan