VCCI_Góp ý các dự án Luật thảo luận tại kì họp thứ IX

Thứ Sáu 08:00 12-06-2020

Kính gửi: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

Để kịp thời phản ánh được các kiến nghị, đóng góp của các doanh nghiệp với các Dự án luật được thảo luận tại kỳ họp Quốc hội thứ 9 lần này, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành tập hợp một số ý kiến đối với một số dự án luật có liên quan. Đó là các luật: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng; Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Đầu tư (sửa đổi); Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tưLuật Bảo vệ môi trường.

Chúng tôi hy vọng bản tập hợp ý kiến này cung cấp một số thông tin và lập luận cần thiết để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các Uỷ ban có liên quan của Quốc hội tham khảo trong quá trình thảo luận, chỉnh lý các luật này.

I. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

  1. Về đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị định

Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) theo quy định của Luật ban hành VBQPPL 2015 được thực hiện theo hai quy trình: đề nghị xây dựng và soạn thảo văn bản. Trong đó, quy trình đề nghị xây dựng (hay còn gọi là đề nghị chính sách) là quy trình mới hoàn toàn và được xem là một trong những thay đổi quan trọng nhất của Luật năm 2015 so với trước đó.

Trong thời gian thực hiện Luật vừa qua cho thấy quy trình xây dựng đề nghị chính sách vẫn còn nhiều vấn đề, ví dụ:

  • Phần nội dung chính sách:
    • Những nội dung chính sách được đề xuất trong đề nghị còn chung chung, vì vậy rất khó để hình dung được chính sách đó như thế nào để đưa ra lựa chọn/ý kiến góp ý, và khi các quy định trong VBQPPL được soạn thảo, rất khó để xác định có phù hợp hay không với chính sách đề xuất;
    • Trong khá nhiều các trường hợp, chỉ có một chính sách được đề xuất, không có nhiều lựa chọn chính sách để cân nhắc;
  • Phần đánh giá tác động:
    • Việc đánh giá tác động của các chính sách dự kiến ban hành nhiều khi còn sơ sài, nhất là chưa làm nổi bật được những chi phí mà xã hội phải thực hiện so với lợi ích quản lý mà Nhà nước thu về của mỗi phương án chính sách;
    • Ý kiến của các đối tượng chịu tác động trong các phần đánh giá tác động vẫn còn khá mờ nhạt;
  • Về kỹ thuật:
    • Nhiều đề nghị chính sách được đính kèm với VBQPPL đã được soạn thảo cụ thể các quy định, do đó các góp ý tập trung chủ yếu vào các quy định của văn bản thay vì các chính sách. Điều này làm mất đi ý nghĩa của việc lấy ý kiến các chính sách.
  • Về thời hạn lấy ý kiến:
    • Khâu xây dựng chính sách (đề nghị xây dựng VBQPPL) là rất quan trọng, nếu làm tốt khâu này thì giai đoạn soạn thảo sẽ có chất lượng tốt hơn nhiều. Tuy nhiên, thời hạn để tham gia ý kiến ở giai đoạn này lại ngắn hơn ở khâu soạn thảo (Điều 36): đăng tải báo cáo tổng kết, báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh lên cổng thông tin ít nhất 30 ngày, cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến có trách nhiệm góp ý bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày).

Từ thực trạng trên, đề nghị Quốc hội xem xét bổ sung:

  • Quy định các yêu cầu cụ thể hơn đối với nội dung các đề xuất chính sách;
  • Yêu cầu trong trường hợp có các VBQPPL đính kèm thì cần giải trình các chính sách đề xuất tương ứng với các quy định cụ thể nào trong các VBQPPL;
  • Tăng thời hạn đăng tải lên cổng thông tin và thời hạn lấy ý kiến, ít nhất cũng bằng thời hạn áp dụng đối với soạn thảo luật, pháp lệnh.
  1. Về soạn thảo VBQPPL theo quy trình thủ tục rút gọn

Dự thảo đã bổ sung quy định để kiểm soát chặt chẽ việc ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn, dự thảo sửa đổi khoản 3 Điều 147 bổ sung quy định về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn; trong trường hợp này, hồ sơ đề nghị phải kèm theo ý kiến bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Điều 146 của Luật quy định các trường hợp cụ thể:

  • (1) Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn theo quyết định của Quốc hội;
  • (2) Trường hợp để ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định;
  • (3) Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.

Dự thảo đang quy định bổ sung các quy định cụ thể hơn cho khoản 3. “Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Tuy nhiên, đối với trường hợp thứ (3) trong Điều 146, trên thực tế rất dễ bị lạm dụng.

Trong thời gian qua, đã có không ít các VBQPPL mặc dù là quan trọng, hướng dẫn chi tiết các Luật có tác động lớn, nhưng lại được đề xuất xây dựng theo trình tự thủ tục rút gọn (thường là với lý do để kịp thời hạn có hiệu lực với Luật), hoặc các VBQPPL trong đó có nhiều quy định ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp (ví dụ các Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh được xây dựng để kịp thời hạn có hiệu lực vào ngày 01/7/2016) được đề xuất soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn (với lý do để kịp thời hạn theo yêu cầu của Luật đầu tư năm 2014).

Việc xây dựng VBQPPL theo trình tự thủ tục rút gọn sẽ làm mất đi cơ hội có ý kiến củ a các đối tượng chịu tác động và cũng khiến cho các quy định, chính sách được đánh giá chưa được kỹ càng, thận trọng, dễ dẫn tới các hệ quả thực tiễn không mong muốn. Thực tế đã chứng minh điều này, nhiều điều kiện kinh doanh bất hợp lý đã được bỏ qua trong đợt rà soát điều kiện kinh doanh năm 2016, vì thiếu thời gian để cân nhắc, đánh giá kỹ càng. Việc áp dụng các quy định này gây ra vướng mắc, bất cập và nhiều vấn đề nghiêm trọng khác trong thực tiễn dẫn tới việc một số văn bản về điều kiện kinh doanh vừa được ban hành năm 2016 đã lại phải tiếp tục được đề xuất, sửa đổi năm 2018.

Do đó, đề nghị Quốc hội xem xét bỏ quy định “trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành” trong quy định về các trường hợp VBQPPL được ban hành theo trình tự thủ tục rút gọn (khoản 3 Điều 146);

Về việc lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Điều 148 của Luật quy định “Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về dự thảo văn bản. Trong trường hợp lấy ý kiến thì thời hạn lấy ý kiến không quá 20 ngày”;

Trên thực tế, rất nhiều văn bản được xây dựng, ban hành theo thủ tục rút gọn đã bỏ qua khâu lấy ý kiến, tham vấn các đối tượng (do theo quy định thì việc lấy ý kiến là không bắt buộc, chỉ là “có thể”), dẫn tới tình trạng khi triển khai trên thực tế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đã gặp ngay nhiều vướng mắc khó khăn.

Do đó, đề nghị Quốc hội xem xét cân nhắc sửa đổi quy định trên, thủ tục rút gọn vẫn phải bao hàm đầy đủ các bước như thủ tục thông thường, nhưng thời gian có thể rút ngắn lại (bỏ chữ “có thể” trong điểm (2) Điều 148 nói trên).

  1. Về văn bản quy định chi tiết

            Khoản 1, Điều 11 của Luật Ban hành VBQPPL 2015 quy định “1. Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định, cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay” là chưa hợp lý, nếu như quy định được ngay, thì phải đưa luôn vào văn bản chính, mà không nên cho phép quy định chi tiết.

          Luật Ban hành VBQPPL năm 1993, 2008 và 2015 đều cho phép rất nhiều cơ quan ban hành VBQPPL và hình thức của VBQPPL. Một đạo luật có thể có nhiều văn bản dưới luật quy định chi tiết, biện pháp tổ chức và hướng dẫn thi hành, dẫn đến tình trạng chậm trễ, chồng chéo, mâu thuẫn, phức tạp, làm kém hiệu lực pháp luật.

            Do đó, đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Điều 11 của Luật 2015 theo hướng hạn chế tối đa việc ban hành văn bản quy định chi tiết, biện pháp và hướng dẫn thi hành. Văn bản cụ thể hoá chỉ được phép hướng dẫn cho rõ hơn, không được phép quy định thêm, nhất là các quy định ngăn cản, hạn chế quyền dân sự của cá nhân và pháp nhân, sẽ hạn chế tình trạng mâu thuẫn và bất ổn định.

  1. Về các trường hợp xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh tại một kỳ họp

Luật 2015 và Dự án Luật sửa đổi không có quy định về các tiêu chí, trường hợp xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh tại một kỳ họp hay hai kỳ họp. Điều 73 của Luật năm 2015 chỉ quy định “trường hợp dự án luật lớn, nhiều điều, khoản có tính chất phức tạp thì Quốc hội có thể xem xét, thông qua tại ba kỳ họp” và Điều 146 thì quy định các trường hợp xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn. Việc thiếu vắng quy định này có thể tạo điều kiện cho những trường hợp trình dự án luật, pháp lệnh đề nghị Quốc hội cho phép thông qua tại một kỳ họp. Việc này sẽ hạn chế sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các nhà khoa học tham gia góp ý xây dựng, hoàn thiện văn bản luật, pháp lệnh.

Để khắc phục tình trạng này, đề nghị Quốc hội xem xét bổ sung các tiêu chí, trường hợp cụ thể đối với việc xây dựng luật, pháp lệnh tại một kỳ họp.

  1. Về văn bản hết hiệu lực

Theo quy định tại khoản 4 Điều 154 của Luật thì “VBQPPL hết hiệu lực thì VBQPPL quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”, quy định này được hiểu thời điểm hết hiệu lực của VBQPPL quy định chi tiết là thời điểm VBQPPL được hướng dẫn chi tiết hết hiệu lực và đây là thời điểm hết hiệu lực đương nhiên.

Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện, rất nhiều VBQPPL quy định chi tiết không đương nhiên hết hiệu lực tại thời điểm VBQPPL được quy định chi tiết hết hiệu lực, các cơ quan ban hành văn bản lại ban hành VBQPPL riêng để bãi bỏ các VBQPPL quy định chi tiết.

Việc ban hành VBQPPL để bãi bỏ các VBQPPL quy định chi tiết sẽ dẫn tới những bất cập về xác định thời điểm hết hiệu lực của VBQPPL cũng như việc áp dụng pháp luật, cụ thể:

  • Nếu thời điểm hết hiệu lực của VBQPPL quy định chi tiết bị bãi bỏ là thời điểm VBQPPL bãi bỏ phát sinh hiệu lực thì (i) mâu thuẫn với quy định tại khoản 4 Điều 154 nói trên (theo đó VBQPPL quy định chi tiết sẽ hết hiệu lực cùng thời điểm với VBQPPL gốc); (ii) có thể xảy ra hiện tượng hai VBQPPL song song cùng được áp dụng trong cùng một thời điểm (02 VBQPPL quy định chi tiết mới và cũ);
  • Nếu thời điểm hết hiệu lực của VBQPPL quy định chi tiết bị bãi bỏ là thời điểm VBQPPL được quy định chi tiết hết hiệu lực thì VBQPPL bãi bỏ hầu như không có ý nghĩa pháp lý (thậm chí còn tạo ra bất cập, tranh cãi – ví dụ đối với các hành vi được thực hiện vào thời điểm trước khi văn bản bãi bỏ này được ban hành).

Mặt khác, việc ban hành VBQPPL để bãi bỏ các VBQPPL quy định chi tiết hết hiệu lực (khi VBQPPL được quy định chi tiết hết hiệu lực) sẽ khiến cho cơ quan nhà nước bị gia tăng chi phí (thực hiện rà soát cũng như ban hành VBQPPL theo quy trình).

Trên thực tế, trong không ít các trường hợp, sở dĩ VBQPPL quy định chi tiết vẫn tiếp tục được áp dụng trên thực tế (cho cả cơ quan Nhà nước và tổ chức, cá nhân, và cơ quan nhà nước “làm lơ/mặc nhiên chấp nhận” việc áp dụng này dù đã có quy định tại khoản 4 Điều 154 về việc hết hiệu lực tự động) có lẽ là bởi việc soạn thảo VBQPPL quy định chi tiết mới thực hiện quá chậm trễ, không thể ban hành cùng thời điểm với thời điểm có hiệu lực của VBQPPL mới cần hướng dẫn chi tiết. Nói cách khác, VBQPPL quy định chi tiết cũ vẫn cần có, để áp dụng trong thời gian chờ VBQPPL quy định chi tiết mới. Tuy nhiên, cũng vì vẫn có VBQPPL để áp dụng như vậy nên các cơ quan có trách nhiệm soạn thảo VBQPPL không phải chịu sức ép phải ban hành VBQPPL quy định chi tiết mới đúng hạn. Điều này, cộng thêm với việc cơ quan có trách nhiệm ban hành VBQPPL quy định chi tiết mới không bị xử lý/chịu trách nhiệm nào do ban hành VBQPPL chậm, dẫn tới tình trạng này càng phổ biến. Do đó, càng cần thực hiện triệt để quy định về việc chấm dứt hiệu lực tự động của VBQPPL quy định chi tiết khi VBQPPL gốc hết hiệu lực.

Vì vậy, để giải quyết tình trạng trên, đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật để quy định rõ ràng và cụ thể hơn về vấn đề này, theo hướng:

  • Hiệu lực của VBQPPL quy định chi tiết sẽ tự động/đương nhiên chấm dứt khi VBQPPL được hướng dẫn thi hành hết hiệu lực;
  • Thời điểm hết hiệu lực của VBQPPL quy định chi tiết là thời điểm VBQPPL được hướng dẫn thi hành hết hiệu lực.
  1. Về hiệu lực của VBQPPL

Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL 2015 (Điều 155, 156) thì hiệu lực của VBQPPL được áp dụng đồng thời theo các tiêu chí:

  • Phạm vi địa lý: không gian văn bản trung ương, văn bản địa phương;
  • Thứ bậc giá trị pháp lý của loại văn bản (ưu tiên lần lượt luật, nghị định, thông tư…);
  • Thời gian (văn bản ban hành sau có hiệu lực hơn văn bản trước).

Các tiêu chí xác định hiệu lực áp dụng của các VBQPPL này là phù hợp và cần thiết.

Tuy nhiên, đối với tiêu chí văn bản được ban hành trước hay sau cũng không dễ xác định. Ví dụ đối với khái niệm “người có liên quan” được quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng và Luật Doanh nghiệp, nếu coi các Luật sửa đổi, bổ sung là luật ban hành sau, thì việc căn cứ vào Luật nào cũng rất khó xác định vì các Luật này được sửa đổi, bổ sung xen kẽ nhau.

Do đó, cần phải xem xét thay đổi quy định về việc trong trường hợp có sự khác nhau thì áp dụng văn bản có hiệu lực cao hơn và văn bản ban hành sau theo hướng rõ ràng hơn.

II. Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án

  1. Trình tự nhận, xử lý đơn kiện, đơn yêu cầu

Điều 18 của Dự thảo quy định sau khi nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự thì trong thời hạn 3 ngày làm việc, Toà án thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn về quyền được lựa chọn hoà giải, đối thoại. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông báo, người được thông báo phải trả lời bằng văn bản về việc có tiến hành hoà giải, đối thoại hay không. Điều 191 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã có thủ tục xác nhận việc nhận đơn. Theo đó, nếu nộp trực tiếp thì Toà án cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn, nếu nộp qua đường bưu điện thì thông báo nhận đơn trong thời hạn 02 ngày làm việc. còn nếu nộp trực tuyến thì phải thông báo ngay qua Cổng thông tin điện tử của Toà án. Sau khi nhận đơn, Toà án có 3 ngày làm việc để phân công thẩm phán xét đơn và thêm 5 ngày làm việc để thụ lý hoặc trả lời người khởi kiện. Trên thực tế, nhiều luật sư và doanh nghiệp phản ánh tình trạng thời gian thụ lý hoặc trả lời người khởi kiện kéo dài hơn quy định của pháp luật. Như vậy, nhiều doanh nghiệp lo ngại thủ tục nhận, xử lý đơn kiện của dự thảo luật này sẽ phát sinh thêm thủ tục và sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định trình tự nhận, xử lý đơn kiện, đơn yêu cầu có sự phân loại các hình thức nộp đơn (trực tiếp, bưu chính và trực tuyến) và kết hợp bước xác nhận việc nhận đơn với việc thông báo quyền lựa chọn hoà giải, đối thoại.

III. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều

  1. Quỹ phòng, chống thiên tai

Quy định về Quỹ phòng, chống thiên tai đã được đưa ra từ Luật Phòng, chống rủi ro thiên tai năm 2013 và Nghị định 94/2014/NĐ-CP năm 2014. Qua 5 năm triển khai, VCCI nhận được nhiều ý kiến doanh nghiệp về sự không cần thiết, lãng phí, tốn kém và thiếu minh bạch của Quỹ phòng, chống thiên tai. Có doanh nghiệp phải nộp hàng trăm triệu đồng cho quỹ này, bao gồm cả nghĩa vụ của chính doanh nghiệp và nghĩa vụ nộp thay người lao động. Nhưng nhiều doanh nghiệp khác không bị thu nộp mà không rõ lý do vì sao lại có sự khác biệt. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp cho rằng đang bị thu một cách bất hợp lý và không biết được số tiền mình nộp đang được quản lý và sử dụng như thế nào, có hiệu quả hay không.

  • Về thu quỹ

Theo báo cáo số 200/BC-ƯPKP của Cục ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai ngày 25/06/2019, tổng số tiền thu được ở các tỉnh thành phố trong 5 năm qua là 2.360 tỷ đồng, riêng trong năm 2018 là 826 tỷ đồng. Hiện vẫn có 2 tỉnh thành phố không thành lập được Quỹ, có 8 tỉnh thành phố không tiến hành thu tiền cho Quỹ. Năng lực thu quỹ hiện nay đạt rất thấp. Theo tính toán, số tiền khả thu năm 2018 là 5.807 tỷ đồng[1], nhưng trên thực tế năm 2018 chỉ thu được 826 tỷ đồng, tức là chỉ đạt 14% nguồn khả thu. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có doanh nghiệp bị yêu cầu nộp quỹ, nhưng cũng có doanh nghiệp không. Điều này vừa gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp vừa tạo ra cơ hội cho tham nhũng, tiêu cực.

  • Về sử dụng quỹ

Trong 5 năm qua các địa phương trên cả nước mới sử dụng 918 tỷ đồng trên 2.360 tỷ đồng thu được, chỉ đạt 39%. Như vậy, hiện có 1.442 tỷ đồng tiền đáng lý ra được sử dụng trong nền kinh tế thì hiện đang bị đóng băng trong Quỹ. Có 7 địa phương trong 5 năm qua chỉ thu chứ không chi quỹ, gồm Điện Biên (thu 8 tỷ đồng), Yên Bái (thu 3,4 tỷ đồng), Hải Dương (thu 9,8 tỷ đồng), Hà Nam (thu 18 tỷ đồng), Ninh Bình (thu 10,5 tỷ đồng), Quảng Ngãi (thu 4,6 tỷ đồng), Lâm Đồng (thu 13,6 tỷ đồng). Có 7 địa phương khác có thu, nhưng số tiền sử dụng rất thấp, không đạt 10% so với số thu, gồm Bắc Kạn (thu 15 tỷ đồng, chi 37 triệu đồng), Vĩnh Phúc (thu 14 tỷ đồng, chi 712 triệu đồng), Hải Phòng (thu 47 tỷ đồng, chi 610 triệu đồng), Kon Tum (thu 10,6 tỷ đồng, chi 800 triệu đồng), Gia Lai (thu 13,4 tỷ đồng, chi 662 triệu đồng), Vũng Tàu (thu 26,7 tỷ đồng, chi 15 triệu đồng), Sóc Trăng (thu 7,5 tỷ đồng, chi 412 triệu đồng). Như vậy, việc sử dụng quỹ qua các con số trên thấy rằng mức độ hiệu quả chưa cao, một nguồn lực xã hội đang bị đóng băng.

Theo thuyết minh của dự án luật thì việc thành lập thêm Quỹ ở cấp trung ương là nhằm điều chuyển tiền từ địa phương có kết dư số tiền lớn sang các địa phương có nhu cầu sử dụng cao. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai, chưa có một địa phương nào chi hết số tiền thu được. Tính đến tháng 6 năm 2019, chỉ có 4 địa phương chi được trên 80% số tiền quỹ gồm Cần Thơ (thu 12,6 tỷ đồng, chi 11,7 tỷ đồng), Bình Thuận (thu 18,7 tỷ đồng, chi 15,3 tỷ đồng), Đắc Nông (thu 11,9 tỷ đồng, chi 9,7 tỷ đồng), Tuyên Quang (thu 12,1 tỷ đồng, chi 9,8 tỷ đồng).

  • Về công khai thông tin quỹ

Nghị định 94/2014/NĐ-CP quy định các địa phương phải công khai thông tin về sử dụng quỹ. Đây cũng là nội dung mà rất nhiều doanh nghiệp quan tâm vì họ muốn biết xem tiền đóng góp của mình có được sử dụng hiệu quả cho mục tiêu phòng tránh thiên tai hay không. Trên thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin của các địa phương rất kém. Báo cáo số 200 cũng cho thấy, chỉ có 42 tỉnh thành nộp báo cáo về việc thu và sử dụng quỹ về Cục. Tức là có nhiều địa phương không báo cáo trước cơ quan cấp trên, chứ chưa nói đến việc báo cáo trước người dân và doanh  nghiệp.

VCCI tiến hành tìm kiếm thông tin về báo cáo sử dụng Quỹ tại website của các địa phương. Kết quả cho thấy, chỉ có một địa phương (Bình Dương) có báo cáo chi tiết đến từng dự án/hoạt động sử dụng quỹ để doanh nghiệp và người dân có thông tin để giám sát trên thực tế. Có hai địa phương (Quảng Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh) có báo cáo về số tiền chi cho các quận, huyện, đơn vị trong tỉnh, nhưng không chi tiết từng hoạt động. 63 địa phương khác không có thông tin báo cáo về việc sử dụng quỹ. Như vậy, người dân và doanh nghiệp dù phải đóng tiền Quỹ nhưng hầu như không được biết tiền của mình được sử dụng thế nào.

Với những lý do trên, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiêm túc đánh giá lại hiện trạng, hiệu quả và hệ quả của chính sách Quỹ phòng chống thiên tai và bãi bỏ chính sách này trong Luật Phòng chống rủi ro thiên tai.

  1. Bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với việc quản lý, vận hành, sử dụng công trình

Điều 18a.4  của Dự thảo quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi quản lý ban hành, quy định cụ thể bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với quy định tại khoản 1 Điều nàytổ chức kiểm tra việc thực hiện”. Trong khi đó, khoản 1 của Điều này quy định: “Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành, sử dụng khu khai thác tài nguyên, khoáng sản; khu đô thị; điểm, khu du lịch; khu công nghiệp; điểm dân cư nông thôn; công trình: phòng chống thiên tai, giao thông, điện lực và các công trình hạ tầng kỹ thuật thực hiện nội dung về bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai trong quy chuẩn kỹ thuật, quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành.” Quy định này sẽ dẫn đến cách hiểu là tất cả các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, thậm chí cả UBND cấp xã sẽ có thẩm quyền ban hành và kiểm tra việc thực hiện quy định yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với các công trình, dự án.

Trên thực tiễn hiện nay, nhiều trường hợp doanh nghiệp phản ánh các cán bộ lợi dụng các quy định về thẩm quyền kiểm tra quá rộng để nhũng nhiễu doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ hơn và giới hạn về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc ban hành và kiểm tra các quy định yêu cầu phòng chống thiên tai. Cụ thể như sau:

  • Chỉ có Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) được ban hành quy định về yêu cầu phòng chống thiên tai quy định tại Khoản 1 Điều này.
  • Các bộ, cơ quan ngang bộ khác chỉ được quy định yêu cầu phòng chống thiên tai lồng ghép trong các quy định về quản lý ngành, lĩnh vực mình phụ trách. Việc ban hành các quy định này đi theo thẩm quyền, trình tự thủ tục và chức năng quản lý ngành của các bộ.
  • UBND các cấp chỉ được kiểm tra việc thực hiện các quy định về phòng chống thiên tai khi có kế hoạch, yêu cầu của cơ quan trung ương.
  1. Cấp phép đối với các hoạt động liên quan đến đê điều

Điều 25.1 của Luật Đê điều quy định về các hoạt động liên quan đến đê điều phải được UBND tỉnh cấp phép. Điều 25.3 giao cho UBND cấp tỉnh hướng dẫn các quy định về việc cấp giấy phép. Trên thực tế, có doanh nghiệp phản ánh tình trạng xin giấy phép này gặp khó khăn do quy định không thống nhất giữa các nơi. Một số địa phương không ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn quy trình cấp phép này. Một số địa phương khác lại có các quy định không đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm soát thủ tục hành chính như không rõ ràng về thành phần hồ sơ, thời hạn giải quyết, đặc biệt là trường hợp phải có sự chấp thuận của Bộ NNPTNT. Nhằm thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định Điều 25 của Luật Đê điều theo hướng Bộ NNPTNT ban hành Thông tư hướng dẫn thủ tục này để áp dụng thống nhất trên toàn quốc, không nên để UBND mỗi tỉnh lại ban hành riêng như hiện nay.

IV. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng

  1. Về thẩm định dự án đầu tư xây dựng

a. Thời hạn và nội dung thẩm định của cơ quan chuyên môn về xây dựng

Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 56 sửa đổi, bổ sung (khoản 12 Điều 1 Dự thảo) thì đối với dự án phải thực hiện thủ tục xin ý kiến hoặc thẩm duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về phòng, chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh thì chủ đầu tư có thể thực hiện song song hai thủ tục: (1) xin ý kiến hoặc thẩm duyệt dự án về các vấn đề phòng, chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh; (2) xin ý kiến của cơ quan chuyên môn về xây dựng. Và kết quả của thủ tục (1) là cơ sở để cơ quan chuyên môn về xây dựng làm cơ sở kết luận thẩm định ở thủ tục (2).

Quy định này dường như chưa thật sự hợp lý và thống nhất với pháp luật về bảo vệ môi trường. Hiện tại, Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường đang được soạn thảo, trong đó có các nội dung như:

  • Các dự án phải đánh giá tác động môi trường. Đây là những dự án đầu tư sử dụng diện tích đất, mặt nước lớn và có ảnh hưởng xấu đến môi trường, cảnh quan thiên nhiên quan trọng, hệ sinh thái, đa dạng trong giai đoạn thực hiện dự án. Như vậy, các dự án này được xác định dựa trên yếu tố tác động đến môi trường mà không dựa trên nguồn gốc vốn của chủ đầu tư dự án hay phương thức đầu tư. Do đó, sẽ có trường hợp các dự án đầu tư xây dựng được thẩm định tại khoản 3 Điều 56 sửa đổi, bổ sung Luật Xây dựng phải đánh giá tác động môi trường;
  • Thời hạn phải thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, tùy thuộc vào thẩm quyền cơ quan thẩm định: nếu là các Bộ thì thời hạn là không quá 45 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ; nếu là UBND cấp tỉnh không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ.

Trong khi đó, thời hạn thẩm định dự án của cơ quan chuyên môn về xây dựng theo quy định tại Điều 59 sửa đổi, bổ sung (khoản 15 Điều 1 Dự thảo) lại phụ thuộc vào loại dự án trong đó nhiều nhất là 30 ngày làm việc (dự án nhóm A), ít nhất là 15 ngày làm việc (dự án nhóm C). Có thể thấy, thời hạn thẩm định dự án sẽ ngắn hơn thời hạn thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường. Do đó, quy định kết quả báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cơ quan chuyên môn về xây dựng kết luận thẩm định là không thể khi hai thủ tục này thực hiện song song. Nói cách khác, quy định tại điểm c khoản 3 Điều 56 là không thể thực hiện được.

b. Hồ sơ thẩm định dự án đầu tư xây dựng dự án đầu tư xây dựng

Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 sửa đổi thì trong hồ sơ thẩm định dự án đầu tư xây dựng phải có “các tài liệu, văn bản có liên quan”. Đây là quy định thiếu rõ ràng về loại tài liệu mà chủ đầu tư phải cung cấp, rất khó để thực hiện trên thực tế, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ lại văn bản, tài liệu này hoặc bỏ quy định này nếu không thể quy định được chi tiết.

  1. Về việc phá dỡ công trình xây dựng (khoản 40 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung khoản 2, 3, 4 Điều 118 Luật Xây dựng)

Dự thảo quy định về trình tự thực hiện việc phá dỡ công trình xây dựng (ra quyết định phá dỡ hoặc quyết định cưỡng chế phá dỡ; thiết kế phương án, giải pháp phá dỡ; tổ chức thi công; giám sát, nghiệm thu công tác phá dỡ). Quy trình này được áp dụng cho tất cả các công trình xây dựng thuộc diện phải phá dỡ quy định tại khoản 1 Điều 118 Luật Xây dựng, trong đó có trường hợp “Nhà ở riêng lẻ có nhu cầu phá dỡ để xây dựng mới”.

Quy trình này là chưa phù hợp với trường hợp phá dỡ nhà ở riêng lẻ, vì vậy đề nghị cơ quan soạn thảo loại trừ trường hợp phá dỡ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 118 Luật Xây dựng không phải thực hiện theo quy trình tại khoản 40 Điều 1 Dự thảo.

  1. Xây dựng công trình tạm (khoản 45 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 131 Luật Xây dựng)

Theo quy định tại Dự thảo thì những công trình “để sử dụng cho việc tổ chức các sự kiện hoặc hoạt động khác trong thời gian ngắn” phải được “UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện theo phân cấp chấp thuận về địa điểm, quy mô xây dựng công trình và thời gian tồn tại của công trình tạm”. Quy định này là chưa rõ về trình tự thủ tục cũng như thẩm quyền của cơ quan nhà nước (trường hợp nào thì UBND cấp tỉnh cấp phép, trường hợp nào thì UBND cấp huyện cấp phép? Việc phân cấp này quy định ở đâu?) trong việc thực hiện cấp phép xây dựng công trình tạm trong trường hợp này. Đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ để đảm bảo tính minh bạch trong quy định.

Tương tự, khoản 4 Điều 131 sửa đổi, bổ sung cũng quy định về việc chủ đầu tư phải xin phép cơ quan có thẩm quyền chấp thuận việc tiếp tục khai thác sử dụng công trình xây dựng tạm phục vụ thi công công trình chính, tuy nhiên Dự thảo lại không có quy định về trình tự, thủ tục để được chấp thuận đề nghị này. Đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ về trình tự, thủ tục này.

  1. Về hợp đồng xây dựng

Mục II Chương VII Luật Xây dựng quy định các vấn đề về hợp đồng xây dựng. Một số quy định liên quan đến hợp đồng xây dựng liên quan đến hợp đồng xây dựng cần được xem xét ở các điểm sau:

a. Nguyên tắc ký kết hợp đồng xây dựng (Điều 138)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Luật Xây dựng thì khi ký kết hợp đồng xây dựng phải đảm bảo nguyên tắc:

  • “Tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, không trái pháp luật và đạo đức xã hội” (điểm a): việc quy định nguyên tắc này là không cần thiết, vì nguyên tắc cơ bản này đã được quy định tại Bộ luật dân sự. Đề nghị bỏ quy định này;
  • “Bảo đảm có đủ vốn để thanh toán theo thỏa thuận của hợp đồng” (điểm b): Theo quy định tại Luật Xây dựng, tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên không có nghĩa vụ chứng minh về việc có đủ vốn hay không. Do đó, không thể nhận biết được các bên có thỏa mãn điều kiện này hay không. Vì vậy, căn cứ vào một quy định rất khó xác định để làm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 139 Luật Xây dựng là rất rủi ro cho các bên trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Đề nghị bỏ quy định này.

b. Nội dung của hợp đồng xây dựng (Điều 141)

Điều 141 Dự thảo quy định rất chi tiết về nội dung hợp đồng xây dựng, trong đó có các nội dung như “ngôn ngữ áp dụng”, “trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, thưởng và phạt vi phạm hợp đồng”, “rủi ro và bất khả kháng”.

Việc quy định quá chi tiết nội dung của hơp đồng xây dựng có thể tạo ra sự hạn chế về tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng này. Chẳng hạn, các bên có thể không thỏa thuận ngôn ngữ áp dụng trong hợp đồng là gì mà soạn luôn hợp đồng bằng tiếng Việt, điều này đồng nghĩa là ngôn ngữ được áp dụng là tiếng Việt, mà không cần có một điều khoản về ngôn ngữ áp dụng.

Vấn đề về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoàn toàn do các bên thỏa thuận (có thể có, có thể không). Đây là điều khoản liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các bên, do đó để các bên trong hợp đồng tự chủ quyết định về vấn đề này.

Các trường hợp bất khả kháng các bên không cần thiết phải thỏa thuận trong hợp đồng, nếu trên thực tế xảy ra các trường hợp này thì đã có pháp luật dân sự quy định và có thể dẫn chiếu quy định của pháp luật dân sự để áp dụng.

Tóm lại, hợp đồng được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của hai bên, do đó Luật quy định quá chi tiết nội dung của hợp đồng vừa không cần thiết, vừa hạn chế quyền của các bên. Do đó, đề nghị cân nhắc bỏ quy định Điều 141 Luật Xây dựng, hoặc chỉ quy định những nội dung cơ bản nhất.

c. Phương thức giải quyết tranh chấp

Khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng quy định về trình tự giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng, theo đó “các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định của pháp luật”. Quy định trên được hiểu, khi có tranh chấp, các bên bắt buộc phải thương lượng và khi không thương lượng được thì mới được giải quyết theo các phương thức: hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.

Việc yêu cầu các bên bắt buộc phải thực hiện trình tự giải quyết tranh chấp trên là chưa hợp lý, ảnh hưởng đến quyền tự do thỏa thuận của các bên về phương thức hoặc cách thức giải quyết khi có tranh chấp. Các bên có thể không cần thương lượng mà thực hiện luôn các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hòa giải/trọng tài/tòa án.

Đề nghị bổ sung quy định sửa đổi khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng theo hướng, khi có tranh chấp về hợp đồng xây dựng các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.

  1. Xã hội hoá các hoạt động thẩm định thiết kế và kiểm tra công tác nghiệm thu công trình

Theo quy định tại Điều 82 của Luật Xây dựng thì cơ quan chuyên môn về xây dựng có thẩm quyền thẩm định thiết kế đối với công trình sử dụng vốn nhà nước, công trình cấp đặc biệt, cấp I, công trình công cộng, công trình xây dựng có ảnh hưởng lớn đến cảnh quan, môi trường và an toàn của cộng đồng. Điều 123.4.b quy định hội đồng nghiệm thu nhà nước và cơ quan chuyên môn về xây dựng có thẩm quyền tổ chức kiểm tra công tác nghiệm thu của chủ đầu tư đối với công trình quan trọng quốc gia, công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, công trình có ảnh hưởng lớn đến an toàn cộng đồng và môi trường, công trình sử dụng vốn nhà nước.

            Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thì hoạt động thẩm định thiết kế và kiểm tra công tác nghiệm thu công trình hoàn toàn có thể tiến hành xã hội hoá, cho phép nhiều đơn vị cả của nhà nước và tư nhân có cạnh tranh để cung cấp dịch vụ. Ví dụ, pháp luật Australia cho phép việc kiểm định và cấp chứng nhận tuân thủ tiêu chuẩn xây dựng và an toàn công trình được giao cho khu vực tư nhân. Các đơn vị kiểm định tư nhân sẽ thực hiện các nhiệm vụ như (1) Thẩm định và phê chuẩn thiết kế bản vẽ đối với các công trình, (2) Giám sát bắt buộc các giai đoạn xây dựng, (3) Đưa ra thông báo vi phạm khi cần thiết, (4) Cấp chứng nhận cuối cùng khi công trình xây dựng hoàn thành. Các đơn vị kiểm định tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với các công trình họ cấp chứng nhận. Thông thường ở mỗi thành phố có từ 2 đến 4 đơn vị như vậy được Nhà nước cấp phép cung cấp dịch vụ bảo đảm chất lượng và an toàn công trình xây dựng.

            Việc xã hội hoá hoạt động thẩm định thiết kế, kiểm tra thi công và nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng tương tự như xã hội hoá rất nhiều dịch vụ công trước đây như đăng kiểm xe cơ giới, kiểm tra chất lượng hàng hoá, kiểm định an toàn lao động cho máy móc, thiết bị, kiểm toán độc lập, thẩm định giá, công chứng… Do có sự cạnh tranh nên sẽ giảm nhũng nhiễu, tiêu cực trong quá trình thực thi. Các cơ quan nhà nước không trực tiếp làm mà đứng ở vị trí ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng, hướng dẫn quy tắc nghiệp vụ thẩm định, kiểm định và kiểm tra lại ngẫu nhiên một số trường hợp để phát hiện và xử lý vi phạm. Đây là phương thức quản lý hiện đại, hiệu quả cao, giảm tải công việc cho các cơ quan nhà nước và thu hút nguồn lực xã hội.

            Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu sửa đổi các quy định tại Điều 82 và Điều 123 của dự thảo luật để mở ra cơ hội xã hội hoá các dịch vụ thẩm định thiết kế và kiểm tra nghiệm thu công trình. Các quy định chi tiết hơn về cấp phép dịch vụ, quy tắc nghiệp vụ, thanh kiểm tra để bảo đảm chất lượng dịch vụ có thể giao cho Chính phủ và Bộ Xây dựng hướng dẫn ở cấp dưới Luật.

V. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

VCCI kiến nghị cần luật hoá các quy định về hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp lần này, xuất phát từ các lý do sau đây:

  1. Bộ luật dân sự đã bỏ tư cách chủ thể của hộ gia đình. Các thành viên hộ gia đình chỉ còn có tư cách cá nhân và thông qua quan hệ đại diện. Do đó, việc duy trì tư cách chủ thể của các hộ kinh doanh là hộ gia đình như một hình thức nửa cá nhân, nửa pháp nhân không còn phù hợp với pháp luật dân sự và thông lệ pháp luật thế giới.
  2. Bản chất kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Chủ thể của hoạt động kinh doanh bản chất là doanh nghiệp.
  3. Tại các nước trên thế giới thì tỷ lệ các doanh nghiệp một chủ, thường ở quy mô siêu nhỏ, chiếm trên 60%. Ví dụ như ở Mỹ thì các doanh nghiệp một chủ chiếm 73% trên tổng số doanh nghiệp có đăng ký. Tại Việt Nam thì tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng loại hình doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ chỉ khoảng 2-3%. Sự chênh lệch con số này là do chúng ta có hình thức hộ kinh doanh. Con số 1,6 triệu hộ kinh doanh có đăng ký tương ứng với khoảng 70% tổng số các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam, tương đồng với tỷ lệ tại các quốc gia khác.
  4. Ở các nước khác thì cá nhân kinh doanh, hoặc các thành viên của gia đình kinh doanh nhỏ lẻ như cửa hàng tạp hoá, trồng trọt, chăn nuôi nông hộ, dịch vụ nhỏ lẻ thì thường lựa chọn hình thức doanh nghiệp một chủ. Khái niệm hộ kinh doanh tại Việt Nam tương ứng với khái niệm doanh nghiệp một chủ hoặc cá nhân kinh doanh tại các nước khác trên thế giới.
  5. Xét về bản chất kinh tế – pháp luật và thông lệ quốc tế thì hộ kinh doanh chính là doanh nghiệp một chủ hoặc còn gọi là cá nhân kinh doanh. Nhưng với bối cảnh lịch sử và tình hình của Việt Nam hiện nay, thì việc sửa đổi lần này cần phải hết sức cân nhắc.
  6. Trước đây, Việt Nam chưa phát triển kinh tế dân doanh, nên hình thức hộ kinh doanh với tối đa 10 lao động là phù hợp. Luật Doanh nghiệp thời kỳ đầu đã cho phép thành lập các doanh nghiệp dân doanh, nhưng khi đó chúng ta lại chưa làm rõ về bản chất pháp lý khái niệm hộ kinh doanh. Kết quả là chúng ta chia thành hai khái niệm phân biệt với nhau, hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Tiếp theo đó, pháp luật trong các lĩnh vực khác như kế toán, thuế, đăng ký kinh doanh, điều kiện kinh doanh, thanh tra, kiểm tra cũng dựa trên đó mà có quy định khác nhau giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp.
  7. Nếu tại thời điểm này, chúng ta coi hộ kinh doanh là doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến nguy cơ không tương thích với pháp luật các lĩnh vực khác. Cụ thể, pháp luật nhiều lĩnh vực khác vẫn có quy định áp dụng riêng giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp như pháp luật thuế, pháp luật về điều kiện kinh doanh, pháp luật về thanh tra kiểm tra. Nếu coi hộ kinh doanh là doanh nghiệp sẽ dẫn đến việc 1,6 triệu hộ kinh doanh sẽ phải áp dụng các quy định quản lý như đối với doanh nghiệp, điều này là không phù hợp.
  8. Việc đưa một chương về hộ kinh doanh vào luật doanh nghiệp không phải là ép các hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, cũng không phải là để áp đặt các nghĩa vụ quản trị doanh nghiệp lên các hộ kinh doanh, càng không phải là để tăng số lượng doanh nghiệp cho đẹp sổ sách báo cáo. Nhiều ý kiến lo ngại như trên là chính đáng. Do đó, cần phải làm rất rõ khái niệm này để tránh hiểu nhầm.
  9. Do đó, VCCI đồng tình với phương án trình của Chính phủ lần này. Tức là đưa thêm một chương về hộ kinh doanh vào Luật doanh nghiệp. Đây là bước đệm để hộ kinh doanh được pháp luật bảo vệ một cách chính thức như các doanh nghiệp, được hưởng các quyền lợi như các doanh nghiệp, nhưng vẫn được ưu tiên về mặt nghĩa vụ thuế, kế toán, quản trị vì có quy mô nhỏ. Nếu sửa đổi như vậy thì chỉ có tác động có lợi cho các hộ kinh doanh chứ không gây bất kỳ điểm bất lợi nào.
  10. Tiếp theo đó, cần mau chóng sửa đổi các quy định pháp luật trong các lĩnh vực khác mà tập trung là kế toán, thuế, quản trị, điều kiện kinh doanh, thanh tra, kiểm tra sao cho việc phân loại đối tượng quản lý chỉ dựa trên quy mô kinh doanh, chứ không dựa trên loại hình kinh doanh. Khi đó thì một số hộ kinh doanh có quy mô lớn tương đương với doanh nghiệp thì sẽ được quản lý như doanh nghiệp. Còn doanh nghiệp có quy mô nhỏ tương đương với hộ kinh doanh thì sẽ được quản lý như hàng triệu hộ kinh doanh khác.
  11. Với cách tiếp cận như vậy, đến lần sửa đổi Luật Doanh nghiệp lần sau thì hộ kinh doanh có thể chuyển đổi về hình thức doanh nghiệp một chủ hoặc cá nhân kinh doanh như bản chất của nó và phù hợp với thông lệ quốc tế.

VI. Luật Đầu tư (sửa đổi)

  1. Về thứ tự áp dụng Luật đầu tư và các luật khác có liên quan

Dự thảo hiện quy định thứ tự ưu tiên trong việc áp dụng Luật Đầu tư và các luật khác có liên quan theo hướng:

(1) Nếu là quy định về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện: Ưu tiên áp dụng Luật Đầu tư

(2) Nếu là quy định về trình tự, thủ tục, bảo đảm đầu tư[2]: Ưu tiên áp dụng Luật Đầu tư, ngoại trừ các Luật Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Luật Đầu tư công, Luật PPP, Luật Chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Dầu khí

Quy định này của Dự thảo tiếp nối và làm rõ hơn các quy định tương tự trong Luật Đầu tư hiện hành, và là cần thiết nhằm giải quyết vướng mắc thực tiễn thời gian qua liên quan tới các chồng chéo, mâu thuẫn nếu có giữa Luật Đầu tư và luật chuyên ngành, qua đó giúp các chế định về đầu tư kinh doanh minh bạch và thống nhất.

Mặc dù vậy, ngay cả khi đã có sự phân định rõ ràng về thứ tự ưu tiên này, một số vấn đề sau vẫn cần phải lưu ý:

  • Đối với cả nhóm (1) và (2):

Việc ưu tiên Luật Đầu tư về lý thuyết sẽ không thể bảo đảm do Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có quy định về hiệu lực ưu tiên của văn bản ban hành sau. Nói cách khác, theo Luật Ban hành VBQPPL thì bất kỳ quy định nào mâu thuẫn với Luật Đầu tư về các vấn đề này nhưng lại nằm trong văn bản ban hành sau Luật Đầu tư thì quy định đó vẫn có thể được áp dụng ưu tiên so với Luật Đầu tư.

Do đó, đề nghị các cơ quan soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và Quốc hội khi soạn thảo, xem xét, thông qua các Luật sau Luật Đầu tư về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, trình tự, thủ tục, bảo đảm đầu tư đều phải chú ý rà soát kỹ và bảo đảm (i) các quy định trong các Dự Luật mới không mâu thuẫn với Luật Đầu tư, và (ii) trường hợp có ý định thay đổi quy định về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc đầu tư kinh doanh có điều kiện trong các Dự Luật mới thì cần đồng thời xem xét sửa Luật Đầu tư tương ứng.

  • Đối với nhóm vấn đề (2):

Trên thực tế vẫn đang tồn tại một số ngành nghề bản chất là đầu tư kinh doanh nhưng lại đang được quản lý về trình tự, thủ tục đầu tư theo các Luật khác không thuộc danh mục các Luật “ ngoại lệ” được liệt kê (ví dụ Luật Luật sư, ….).

Do đó, sau khi Luật này ban hành, đề nghị có rà soát tổng thể tất cả các Luật liên quan để bảo đảm tuân thủ đúng quy định của Luật Đầu tư.

  1. Ngành nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện

Việc xác định các ngành nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thể hiện chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh. Qua các danh mục về những nhóm ngành nghề này có thể đánh giá được, các chính sách của pháp luật về kinh doanh đã thể hiện được tinh thần về “quyền tự do kinh doanh” đã được Hiến định hay chưa.

a. Về việc bổ sung ngành “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” vào Danh mục các ngành nghề cấm kinh doanh

Về nguyên tắc, việc xếp một ngành nghề kinh doanh vào diện cấm kinh doanh là biện pháp hạn chế tuyệt đối quyền hiến định về tự do kinh doanh, và do đó cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Cụ thể, việc xem xét ít nhất cần dựa trên 02 yếu tố (i) không có nhu cầu xã hội với ngành nghề đó hoặc nhu cầu xã hội đó là không chính đáng; và (ii) kinh doanh ngành nghề đó có thể gây ra ảnh hưởng bất lợi nghiêm trọng đến các lợi ích công cộng mà không thể được kiểm soát hay ngăn chặn bởi bất kỳ biện pháp quản lý khác không thể kiểm soát được.

Liên quan tới yếu tố (i) về nhu cầu xã hội đối với dịch vụ đòi nợ:

  • Nhu cầu yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ tới hạn (bao gồm nghĩa vụ trả nợ hay nghĩa vụ khác) đang ngày càng phổ biến trong bối cảnh các quan hệ xã hội đang phát triển rất mạnh mẽ và tình trạng không thực hiện các nghĩa vụ tới hạn xuất hiện ngày càng nhiều;
  • Nhu cầu này là hoàn toàn chính đáng, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh khi mà (i) tồn tại khá nhiều trường hợp doanh nghiệp nợ từ chối hoặc chây ì thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi tới hạn gây thiệt hại đáng kể cho doanh nghiệp “chủ nợ” (ví dụ làm cụt vốn kinh doanh, làm tắc nghẽn dòng tiền…); (ii) doanh nghiệp “chủ nợ” tự mình không có cách thức nào hiệu quả để thúc đẩy doanh nghiệp nợ trả nợ cho mình vì nhiều lý do (do không có kiến thức, chuyên môn về các biện pháp pháp lý có thể áp dụng; do không có thời gian xử lý; do không có nhân lực có đủ khả năng thuyết phục; do bên có nghĩa vụ trả nợ từ chối gặp, thương lượng; do không muốn mất thời gian và tiền bạc cho việc kiện ra tòa án/trọng tài…)

Liên quan tới yếu tố (ii) về khả năng kiểm soát bằng các biện pháp quản lý Nhà nước đối với dịch vụ đòi nợ:

  • Xét bản chất, “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” là một hoạt động kinh doanh theo đó đơn vị cung cấp dịch vụ sử dụng các nghiệp vụ, kĩ năng để thu hồi được khoản nợ cho khách hàng (ví dụ nhận diện các biện pháp pháp lý có thể áp dụng nếu bên nợ không trả nợ; trao đổi, thuyết phục bên nợ về các nguy cơ/rủi ro pháp lý/vật chất với họ khi không thực hiện nghĩa vụ trả nợ…). Hoạt động này nếu thực hiện đúng tính chất thì không gây ra bất kỳ rủi ro nào cho trật tự, lợi ích công cộng;
  • Trên thực tế, có những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ sử dụng các biện pháp bất hợp pháp (sử dụng vũ lực, đe dọa bên nợ, …) để đòi nợ. Những hành vi vi phạm pháp luật này xâm phạm và gây ra rủi ro cho các lợi ích công cộng liên quan. Những hành vi vi phạm pháp luật này sẽ vẫn tồn tại không phụ thuộc vào việc ngành nghề kinh doanh này có được phép thực hiện hay không. Việc xử lý các hành vi vi phạm này đã và đang được thực hiện theo quy định trong các văn bản pháp luật liên quan (hình sự, hành chính).

Đáng chú ý là hiện chưa có con số thống kê về những vụ vi phạm pháp luật liên quan đến “đòi nợ” của các doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ để nhận biết được thực trạng. Nếu những hành vi vi phạm pháp luật này phần lớn xuất phát từ các nhóm đối tượng, tổ chức không kinh doanh trong lĩnh vực đòi nợ, thì việc cấm hoạt động kinh doanh này là ít ý nghĩa.

  • Việc cấm các dịch vụ đòi nợ có thể là lợi bất cập hại khi (i) hoạt động kinh doanh hợp pháp không thể triển khai, nhu cầu của xã hội không được đáp ứng, dẫn tới việc người có nhu cầu đòi nợ phải tiếp cận các tổ chức “xã hội đen”, từ đó cả quyền lợi của chủ nợ và người nợ đều không được bảo đảm; (ii) khi ngành nghề này bị cấm, toàn bộ các hoạt động liên quan sẽ chuyển từ chỗ “được kiểm soát và có thể phát hiện vi phạm” sang hoạt động “ngầm” – khi đó nguy cơ xảy ra các hành vi vi phạm có thể sẽ còn cao hơn nhiều, và cũng khó kiểm soát, phát hiện và xử lý hơn nhiều.

Từ các phân tích nêu trên, việc cấm hoạt động “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” là phương án không thích hợp và thậm chí là có thể tạo ra nhiều rủi ro (cho cả xã hội và quản lý Nhà nước) hơn là cho phép ngành nghề kinh doanh này được thực hiện đồng thời kiểm soát bằng các điều kiện kinh doanh cụ thể.

b. Về việc sửa đổi, bổ sung Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện

So với Luật hiện hành, Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đã được sửa đổi, bổ sung khá nhiều. Trong đó tổng số ngành nghề kinh doanh có điều kiện đã được rút ngắn thêm, từ 243 xuống còn 236 ngành nghề. Tuy nhiên việc sửa đổi Danh mục này vẫn còn chưa thực sự được như kỳ vọng, cụ thể:

  • Thiếu nhất quán về chính sách nhận diện, xác định các ngành nghề kinh doanh có điều kiện:

Trường hợp 1: Quản lý khác nhau với ngành nghề bản chất tương tự nhau.

Trong Danh mục tại Luật Đầu tư, có 3 nhóm ngành nghề quản lý về an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của 3 Bộ: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Y tế, Công Thương. Cả 03 nhóm ngành nghề này đều có chung về phương thức quản lý được điều chỉnh bởi pháp luật về an toàn thực phẩm. Danh mục tại Dự thảo đề xuất bỏ “Kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Y tế” trong khi vẫn giữ hai ngành nghề tương tự thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương?

Trường hợp 2: Quản lý chủ thể kinh doanh hay sản phẩm/đối tượng kinh doanh.

Dự thảo đã bãi bỏ một số ngành nghề trong Danh mục xuất phát từ việc thay đổi phương thức quản lý: chuyển từ “kiểm soát chủ thể kinh doanh” sang “kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa” (tức là quản lý đối tượng đầu ra của hoạt động kinh doanh – đối tượng có nguy cơ tác động đến lợi ích công cộng). Ví dụ Dự thảo bỏ ngành nghề “sản xuất mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe gắn máy”; “sản xuất, sửa chữa chai chứa khí dầu mỏ hóa lỏng (chai LPG)” khỏi Danh mục. Suy đoán là chất lượng của từng mũ bảo hiểm hay tính an toàn của chai LPG được bán ra sẽ được kiểm soát cụ thể thông qua các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan. Tuy nhiên, Danh mục lại vẫn được giữ nguyên một số ngành nghề có tính chất tương tự (rủi ro có thể gây ra cho lợi ích công cộng xuất phát từ các sản phẩm cuối cùng cụ thể, và các sản phẩm này đã được quản lý bằng các loại giấy phép, chứng nhận, quy chuẩn… áp dụng cho từng sản phẩm), chẳng hạn: “Kinh doanh dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, tổ chức thi người đẹp, người mẫu”; “Kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi phương tiện thủy nội địa”; “kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa tàu biển”.

Trường hợp 3: Quản lý phương thức kinh doanh hay sản phẩm/đối tượng kinh doanh

Một số ngành nghề được xác định là ngành nghề có điều kiện kinh doanh dựa vào “đối tượng kinh doanh” thay vì bản chất của ngành nghề kinh doanh. Ví dụ, Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện bao gồm một số ngành kinh doanh tạm nhập tái xuất, ví dụ “Kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh”; “Kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa đã qua sử dụng”. Theo cách này, doanh nghiệp nếu kinh doanh các loại “thực thẩm đông lạnh”, “hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa đã qua sử dụng” theo phương thức “tạm nhập, tái xuất” sẽ bị kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh, còn nếu cũng doanh nghiệp đó, cũng hàng hóa đó, nhưng khi họ kinh doanh theo phương thức khác (mua, bán nội địa, xuất khẩu, nhập khẩu …) được xác định hoặc là kinh doanh thông thường hoặc thông qua kiểm soát chất lượng sản phẩm của hàng hóa. Như vậy, phương thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất” với những hàng hóa liên quan gây ra nguy cơ rủi ro gì tới các lợi ích công động được liệt kê tại Điều 7 Dự thảo hơn các phương thức kinh doanh khác cũng với các hàng hóa này để buộc phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh? Liệu có thể thay thế bằng phương thức kiểm soát theo đối tượng (như trường hợp 2) hay không?

  • Mục tiêu kiểm soát Nhà nước không thuyết phục hoặc đã được bảo đảm bằng các biện pháp quản lý khác

Danh mục tại Dự thảo bao gồm một số ngành nghề kinh doanh không tác động đáng kể đến các lợi ích công đến mức buộc Nhà nước phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh hoặc đã có các biện pháp quản lý khác kiểm soát được các rủi ro của những hoạt động kinh doanh này. Ví dụ “Kinh doanh dịch vụ in, trừ in bao bì”: Yếu tố rủi ro cần kiểm soát của hoạt động này chính là sản phẩm in ấn mà không phải bản thân hoạt động in ấn. Trong khi đó, những sản phẩm in có tính nhạy cảm, tác động đến an ninh xã hội đã được kiểm soát bằng các biện pháp quản lý theo pháp luật về xuất bản. Do đó, áp đặt điều kiện kinh doanh cho các chủ thể kinh doanh dịch vụ in là quá mức cần thiết. Hơn nữa, thời gian qua các điều kiện trong lĩnh vực này đã có những vướng mắc, bất cập, tạo gánh nặng về thủ tục, chi phí, thời gian của các doanh nghiệp.

  • Ngành nghề có phạm vi kiểm soát quá rộng

Ví dụ “Kinh doanh vàng”: với phạm vi này được hiểu bất kì hoạt động kinh doanh nào liên quan đến vàng đều được kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh. Điều này dường như chưa hợp lý nếu áp dụng đối với “sản xuất, kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ”. Khác với vàng nguyên khối được sử dụng như một loại tài sản đặc biệt, có ảnh hưởng tới quản lý vĩ mô, vàng trang sức, mỹ nghệ được xem như là một loại hàng hóa thông thường. Vì vậy, kiểm soát điều kiện kinh doanh đối với các chủ thể sản xuất, kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ là quá mức cần thiết.

Tóm lại, cần rà soát lại toàn bộ Danh mục để đảm bảo các ngành nghề trong Danh mục là những ngành nghề cần kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh vì quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (gọi chung là lợi ích công cộng).

  1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ

Điều 31 Dự thảo quy định về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 10.000 tỷ đồng trở lên (khoản 2).

Quy định này cần được xem xét lại từ góc độtính nhất quán trong chính sách quản lý về đầu tư. Cụ thể:

Các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ được liệt kê tại khoản 1 và 3 Điều 31 Dự thảo đều là các dự án tác động đến lớn các lợi ích công cộng (không phụ thuộc vào quy mô vốn). Mục tiêu của việc Thủ tướng chấp thuận chủ trương đối với các dự án này suy đoán là để bảo đảm việc kiểm soát bước đầu và đánh giá tác động của việc thực hiện dự án tới những lợi ích công cộng liên quan.

Trong khi đó, dự án quy định tại khoản 2, không đề cập đến trong lĩnh vực gì, chỉ quan tâm đến quy mô vốn, khiến cho mục tiêu chính sách trở nên chưa minh bạch. Không rõ tại sao lại phải chấp thuận chủ trương đầu tư của dự án có quy mô vốn trên 10.000 tỷ? Những dự án đầu tư vào những lĩnh vực không tác động đến môi trường, an ninh xã hội thì tại sao lại phải kiểm soát? Trong khi đó, việc yêu cầu phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ở cấp Thủ tướng đối với những dự án này sẽ tạo gánh nặng về thủ tục và cản trở cho các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư.

Hơn nữa, hầu như tất cả các dự án có quy mô vốn đầu tư từ 10.000 tỷ trở lên đều thuộc diện phải đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất, tức là suy đoán ngay cả khi không có Thủ tướng chấp thuận đầu tư thì cũng phải được xem xét kiểm soát trước thông qua thủ tục chấp thuận đầu tư của UBND tỉnh.

Từ các lý do nêu trên, đề nghị điều chỉnh quy định này theo hướng:

  • Hoặc là bỏ khoản 2 Điều 31;
  • Hoặc là chuyển các dự án tại khoản 2 Điều 31 xuống Điều 32 (tức là chuyển thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Thủ tướng sang cho UBND tỉnh)
  1. Về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án

Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Dự thảo thì việc lựa chọn nhà đầu tư được tiến hành dựa trên ba phương thức: đấu giá, đấu thầu, chấp thuận nhà đầu tư. Việc lựa chọn nhà đầu tư theo phương thức đấu thầu, đấu giá chỉ được thực hiện sau khi chấp thuận chủ trương đầu tư (khoản 2).

Như vậy, có thể hiểu việc lựa chọn nhà đầu tư quy định tại khoản 1 Điều 29 Dự thảo chỉ thực hiện đối với các dự án quy định tại Điều 30, 31, 32 Dự thảo (tức là các dự án không phải xin chấp thuận đầu tư). Đồng thời, cách hiểu này cũng phù hợp với các điều khoản khác của Dự thảo (khi các dự án không thuộc diện phải chấp thuận đầu tư thì cũng không có thủ tục nào về lựa chọn nhà đầu tư).

Theo cách hiểu này thì cách thức thiết kế quy định tại Điều 29 Dự thảo cần sửa đổi như sau:

  • Khoản 1 Điều 29: Cần sửa đoạn mở đầu theo hướng “Lựa chọn nhà đầu tư trong các trường hợp quy định tại Điều 30, 31, 32 Luật này được tiến hành thông qua một trong các phương thức sau:…”;
  • Khoản 2 Điều 29: Bỏ cụm từ “trừ trường hợp dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư” (vì Luật này không quy định về lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư)
  • Khoản 3 Điều 29 quy định về các trường hợp chấp nhận nhà đầu tư không thông qua đấu giá, đấu thầu. Trong khi đó các trường hợp liệt kê trong khoản này lại quy định “trường hợp khác không thuộc diện đấu giá, đấu thầu theo quy định của pháp luật”. Quy định thòng này là là không rõ ràng và không phù hợp.
  1. Giải quyết tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo

Trong thời gian qua, các doanh nghiệp, hiệp hội cũng như chính quyền địa phương phản ánh khá nhiều về những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định pháp luật liên quan đến trình tự, thủ tục đầu tư, trong đó sự thiếu thống nhất giữa Luật Đầu tư và các luật có liên quan như: Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Nhà ở… là khá nhiều,

Dự thảo Luật Đầu tư đã cố gắng khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo này, tuy nhiên nếu chỉ sửa Luật Đầu tư mà không sửa các luật khác tương ứng, đặc biệt là Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở thì sự thiếu nhất quán trong các quy định về đầu tư kinh doanh vẫn khó giải quyết được triệt để.

Liên quan đến Luật Đầu tư, về cơ bản những sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo đã phần nào tương thích với các văn bản pháp luật có liên quan và giải quyết đáng kể những mâu thuẫn, chồng chéo. Tuy nhiên, vẫn còn quy định tạo ra sự chồng lấn về thủ tục giữa các văn bản pháp luật có liên quan, cụ thể là thủ tục về chuyển nhượng dự án đầu tư.

Điều 46 Dự thảo quy định điều kiện chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư cho nhà đầu tư khác, trong đó có điều kiện về tuân thủ quy định của pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản trong trường hợp chuyển nhượng dự án nhà ở, kinh doanh bất động sản. Trường hợp đáp ứng điều kiện chuyển nhượng, nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư theo quy định tại khoản 1 Điều 42 của Luật này để thay đổi nhà đầu tư. Cụ thể:

  • Theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật Kinh doanh bất động sản thì “việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc đầu tư đồng ý bằng văn bản”. Chủ đầu tư phải gửi hồ sơ đề nghị chuyển nhượng dự án cho cơ quan đã chấp thuận chủ trương đầu tư.
  • Theo quy định tại Điều 41 Dự thảo thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương điều chỉnh dự án đầu tư, chấp thuận chủ trương đầu tư nếu dự án thuộc diện phải chấp thuận chủ trương đầu tư. Như vậy, theo quy định của pháp luật về đầu tư, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư.

Như vậy, để chuyển nhượng dự án đầu tư về kinh doanh bất động sản, nhà đầu tư sẽ phải thực hiện 02 thủ tục: (i) xin chấp thuận chuyển nhượng dự án và (ii) xin chấp thuận điểu chỉnh dự án đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư.

Hai thủ tục này được thực hiện tại cùng 01 cơ quan (cơ quan có thẩm quyền quyết định về đầu tư); với cùng 01 nội dung thẩm định (xem xét năng lực và điều kiện đầu tư của nhà đầu tư nhận chuyển nhượng). Điều này tạo ra sự chồng lấn và gia tăng chi phí về thủ tục, gây khó khăn cho nhà đầu tư khi thực hiện trên thực tế.

Đề nghị tích hợp hai quy định này và quy định rõ theo hướng chỉ cần thực hiện một thủ tục trong trường hợp chuyển nhượng dự án bất động sản.

  1. Về cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh

Khoản 3 Điều 14 Dự thảo quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đối với tranh chấp “có yếu tố nước ngoài” giữa các nhà đầu tư với nhau, trong đó liệt kê 05 hình thức giải quyết tranh chấp mà nhà đầu tư có thể lựa chọn, bao gồm:

a) Tòa án Việt Nam;

b) Trọng tài Việt Nam;

c) Trọng tài nước ngoài;

d) Trọng tài quốc tế;

đ) Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập

Tuy nhiên, quy định về hình thức d và đ là chưa phù hợp bởi:

  • Đối với hình thức “trọng tài quốc tế”: Pháp luật trọng tài Việt Nam không ghi nhận hình thức này. Trên thế giới, hình thức này hiện mới chỉ áp dụng cho các tranh chấp đầu tư quốc tế giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền nước sở tại (tranh chấp ISDS), không phải hình thức áp dụng cho tranh chấp giữa các nhà đầu tư với nhau, kể cả khi có một bên là nhà đầu tư nước ngoài
  • Đối với hình thức “trong tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập”: Về bản chất, đây là trọng tài ad hoc (phân biệt với trọng tài thiết chế). Về pháp lý, trọng tài ad hoc vẫn phải thuộc một trong hai trường hợp trọng tài Việt Nam và trọng tài nước ngoài. Ngoài 2 trường hợp này, pháp luật Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế chưa ghi nhận trọng tài nào khác. Hơn nữa, cần chú ý rằng về logic thì mọi hình thức trọng tài đều phải được thành lập dựa trên “thỏa thuận giữa các bên tranh chấp”.

Vì vậy, để bảo đảm tính chính xác, phù hợp với pháp luật nội địa và thông lệ quốc tế về vấn đề này, đề nghị bỏ các điểm d và đ (trọng tài quốc tế và trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập) của khoản 3 Điều 15.

VII. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư

  1. Lĩnh vực PPP

Điều 5.1.b của Dự thảo đưa ra hai phương án, theo đó, có nên áp dụng đầu tư PPP cho các dự án nhà máy điện (trừ nhà máy thuỷ điện). Đề nghị quy định theo phương án 2, tức là cho phép áp dụng hình thức đầu tư PPP cho các dự án nhà máy điện. Điều này phù hợp với Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 yêu cầu ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững; khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia phát triển năng lượng. Bên cạnh đó, nhà đầu tư sẽ không đầu tư theo phương án 2, vì nhà đầu tư chỉ đầu tư lưới điện phục vụ nhà máy điện do chính họ đầu tư để giải tỏa công suất phát điện của họ. Thêm nữa, đầu tư lưới điện không đem lại hiệu quả kinh tế vì chi phí vận hành lưới điện chiếm tỷ trọng rất thấp trong giá điện. Về các lĩnh vực PPP, có thể xem xét mở rộng các lĩnh vực trong dịch vụ công và các lĩnh vực khác phát huy tính sáng tạo của khu vực tư, chứ không chỉ cơ sở hạ tầng.

  1. Cơ chế chia sẻ rủi ro doanh thu (Điều 86)

Ngoài những rủi ro về thị trường, về chính sách, các dự án PPP còn gặp phải các rủi ro từ quá trình đầu tư xây dựng cho đến quá trình quản lý, vận hành, khai thác. Do đó, khuyến khích nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP, bên cạnh các ưu đãi, bảo đảm về thuế, đất đai, cung cấp dịch vụ công cộng, quyền thế chấp tài sản… (quy định tại Điều 83, 84, 85), Dự thảo đã có cơ chế mới, đó là cơ chế chia sẻ rủi ro phần tăng, giảm doanh thu, góp phần dung hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và doanh nghiệp dự án PPP.

Tuy nhiên, cần quy định cụ thể, chặt chẽ và công bằng hơn về điều kiện áp dụng chia sẻ doanh thu giữa Nhà nước và nhà đầu tư, đảm bảo cơ chế chia sẻ rủi ro thể hiện đúng bản chất của phương thức đầu tư công-tư. Đồng thời, cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu phải được xác định rõ tại quyết định chủ trương đầu tư.

Điều 86 của Dự thảo đang quy định “cứng” tỷ lệ này là 50%. Đề nghị xem xét tỷ lệ chia sẻ phần giảm doanh thu nên được quyết định tùy theo từng dự án vì mỗi dự án sẽ có mức độ rủi ro khác nhau, khả năng sinh lời khác nhau, tùy thuộc lĩnh vực, ngành nghề cụ thể, thời điểm và khả năng cân đối nguồn ngân sách. Nếu quy định cứng có thể làm hạn chế đầu tư.

Bên cạnh đó, cần mở rộng đối tượng được hưởng chế độ chia sẻ doanh thu sụt giảm, cụ thể: áp dụng cho tất cả các dự án bị sụt giảm doanh thu mà không do lỗi của nhà đầu tư.

Đề nghị quy định cụ thể hơn về cơ chế chia sẻ sụt giảm doanh thu sau khi nhà đầu tư đáp ứng đủ điều kiện theo quy định (về phương thức hỗ trợ, thời gian hỗ trợ..), đồng thời để giảm thiểu tiêu cực, cần quy định tiêu chí rõ ràng về việc điều chỉnh giá vé thu phí, điều chỉnh thời hạn hợp đồng… Các tiêu chí này phải được cấp có thẩm quyền công bố trước khi lựa chọn nhà đầu tư để đảm bảo tính minh bạch và nhà đầu tư, ngân hàng cho vay có đủ cơ sở để đánh giá mức độ rủi ro khi tham gia dự án.

Đối với trường hợp chia sẻ tăng doanh thu, Dự thảo (khoản 1 Điều 86) đang quy định mức tăng là 25%. Thực tế với các dự án hiện nay, hiếm xảy ra trường hợp doanh thu thực tế cao hơn phương án tài chính và nếu có tăng thì mức tăng cũng không nhiều. Do đó, trong giai đoạn trước mắt, đề nghị xem xét điều chỉnh tỷ lệ này là 10-15% thay vì 25% như Dự thảo.

  1. Bảo lãnh của Chính phủ trong các dự án PPP

Việc thiếu bảo lãnh của Chính phủ trong các dự án PPP là lý do khiến một số dự án PPP bị đình trệ. Rất ít nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các dự án PPP nếu không có bảo đảm của Chính phủ đối với mức doanh thu tối thiểu. Trong nhiều trường hợp, các ngân hàng yêu cầu bảo lãnh vượt quá trách nhiệm hữu hạn đối với tài sản của doanh nghiệp dự án và kiến nghị áp dụng bảo lãnh Chính phủ cho các dự án PPP nhằm tăng cường mức độ bảo đảm cho đầu tư tư nhân. Nhiều nhà đầu tư cho rằng họ không thể huy động vốn cho các dự án PPP nếu không có bảo lãnh của Chính phủ.

Do đó, đề nghị xem xét bổ sung quy định về thành lập một doanh nghiệp nhà nước để cung cấp bảo lãnh cho các dự án PPP (bài học thành công của Indonesia), thay vì đưa ra những giới hạn và hạn chế về bảo lãnh, vì điều này sẽ không khuyến khích đầu tư và ảnh hưởng đến mục tiêu của Luật.

  1. Hiệu lực của hợp đồng dự án PPP so với các giấy phép, văn bản hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Nhiều nhà đầu tư e ngại khi đang thực hiện hợp đồng dự án PPP lại có những mâu thuẫn giữa nội dung hợp đồng và nội dung các giấy phép, yêu cầu của các cơ quan nhà nước có liên quan. Hợp đồng PPP là thể hiện ý chí của Nhà nước và nhà đầu tư, do đó, đề nghị Luật quy định nguyên tắc ưu tiên áp dụng hợp đồng PPP để diễn giải quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng PPP khi có những sự khác nhau/mâu thuẫn nói trên, thậm chí có nhà đầu tư còn đề nghị bổ sung quy định cấm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các giấy phép, yêu cầu trái với nội dung hợp đồng PPP đã ký, trừ trường hợp các bên thống nhất được việc điều chỉnh nội dung hợp đồng dự án PPP.

  1. Đảm bảo chi phí chuẩn bị dự án chất lượng

Quy định chi tiêu chuẩn bị dự án và lựa chọn nhà đầu tư vào kế hoạch đầu tư công (Kế hoạch đầu tư công trung hạn) còn phức tạp và mất nhiều thời gian. Luật Đầu tư công quy định chi tiêu chuẩn bị dự án thuộc về chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan triển khai gặp khó khăn trong việc đảm bảo vốn chuẩn bị dự án, do đó ảnh hưởng đáng kể đến việc đưa các dự án PPP “khả thi để ngân hàng cấp vốn tín dụng” và được cấu trúc tốt ra thị trường.

Liên quan đến cấp vốn cho các hoạt động chuẩn bị dự án, đề nghị xem xét bổ sung quy định cho phép huy động, sử dụng nguồn vốn hợp pháp khác nhằm cung cấp đủ nguồn lực tài chính để đảm bảo công tác chuẩn bị được kịp thời và có chất lượng. Nội dung chi có thể bao gồm cả chi phí cho tư vấn và/hoặc cố vấn quốc tế.

  1. Chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng dự án PPP (Điều 57)

Khoản 2 quy định: Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng một phần cổ phần, phần vón góp cho nhà đầu tư khác sau khi hoàn thành xây dựng công trình đối với dự án có cấu phần xây dựng hoặc sau khi chuyển sang giai đoạn vận hành đối với dự án không có cấu phần xây dựng. Đề nghị xem xét không nên hạn chế quyền của nhà đầu tư chuyển nhượng toàn bộ cổ phần sau khi hoàn thành xây dựng. Dự thảo nên quy định là “chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ cổ phần”, vì đây là quyền của nhà đầu tư.

  1. Thu xếp tài chính thực hiện dự án (Điều 80)

   Khoản 2 Điều 80 quy định:

   Trong thời hạn 12 tháng kể từ thời điểm ký kết hợp đồng, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP phải hoàn thành thu xếp tài chính; đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ, thời hạn không quá 18 tháng. Hợp đồng PPP chỉ có hiệu lực khi nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP hoàn thành thu xếp tài chính.

Việc ấn định thời hạn như vậy tạo ra quan ngại về tính khả thi về tài chính cho một số dự án và về tính linh hoạt khi thực hiện, thậm chí việc ấn định như vậy còn trở nên không khả thi do thời gian thu xếp tài chính sẽ khác nhau giữa các dự án khác nhau với quy mô khác nhau, nghĩa là những thời hạn đặt ra này có thể không đủ dài và tạo ra những quan ngại đối với những dự án quy mô lớn và công nghệ cao. Bên cạnh đó, việc đàm phán và soạn thảo hợp đồng giữa bên cho vay và bên vay có thể phụ thuộc và các yếu tố ngoài tầm kiểm soát của các bên.

Do đó, không nên quy định cứng trong Luật mà nên được cân nhắc cụ thể khi ban hành Nghị định, phụ thuộc vào ngành nghề, quy mô và nhiều yếu tố khác.

VIII. Luật Bảo vệ môi trường

  1. Đánh giá tác động môi trường

Các quy định về ĐTM hầu như không có thay đổi so với Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) hiện hành. Tuy nhiên, Dự thảo Luật đã bổ sung thêm hai công cụ mới là đánh giá sơ bộ tác động môi trường và giấy phép môi trường. Do đã có thêm các công cụ này, nên các quy định về ĐTM cũng cần được điều chỉnh. Những vấn đề nào đã được giải quyết thông qua công cụ đánh giá sơ bộ tác động môi trường và giấy phép môi trường thì không cần trong ĐTM nữa và có thể lược bỏ.

  • Điều kiện kinh doanh và chứng chỉ hành nghề ĐTM

Quy định này được hiểu là nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của người làm dịch vụ ĐTM. Tuy nhiên, nguyên nhân chất lượng báo cáo ĐTM thấp chủ yếu là do công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo không bảo đảm chất lượng. Nếu làm tốt công tác thẩm định, phê duyệt và chỉ chấp nhận những báo cáo ĐTM có chất lượng thì sẽ khiến các doanh nghiệp buộc phải thuê cá nhân, tổ chức có chuyên môn cao làm dịch vụ. Lúc đó, không cần quy định về chứng chỉ hành nghề thì vẫn đạt được mục đích. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.

  • Thời điểm lập báo cáo ĐTM

Dự thảo hiện đang quy định: “Việc đánh giá tác động môi trường phải được thực hiện trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi theo quy định của pháp luật về xây dựng hoặc trước khi quyết định đầu tư dự án”. Quy định này không khả thì vì trong giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi thì chủ đầu tư chưa có đủ thông tin về dự án để lập báo cáo ĐTM. Do quy định mới đã có bước đánh giá sơ bộ tác động môi trường trước khi quyết định chủ trương đầu tư, nên bước ĐTM chi tiết hoàn toàn có thể lùi lại mà vẫn bảo đảm kiểm soát các yếu tố môi trường của dự án. Đề nghị sửa lại quy định theo hướng việc đánh giá tác động môi trường phải được thực hiện trước khi quyết định cấp phép xây dựng dự án.

  • Tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường

Đề nghị xem xét bổ sung vào các Khoản 2, 3, 4 nội dung sau: “Sau thời hạn quy định trên, nếu chính quyền không tổ chức họp tham vấn hoặc có văn bản phản hồi thì coi như đồng ý với các nội dung tham vấn của chủ dự án”. Quy định như vậy sẽ tránh việc gây sách nhiễu doanh nghiệp trong quá trình tham vấn.

  • Sử dụng quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM

Điều 43.8 quy định quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM được sử dụng để c) Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế cơ sở của dự án;d) Quyết định đầu tư dự án đối với các dự án khác không thuộc đối tượng quy định tại các điểm a, b và c khoản này. Theo dự thảo hiện nay đã có đánh giá môi trường sơ bộ đối với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao trong quá trình thẩm định phê duyệt chủ trương đầu tư. Do đó nếu để khoản c và d như trên sẽ vướng mắc trong quá trình cấp phép đầu tư cho doanh nghiệp và mâu thuẫn với Luật Đầu tư.

  1. Giấy phép môi trường
  • Giấy phép môi trường trong trường hợp đã có ĐTM

Điều 48.7 của Dự thảo quy định căn cứ để cấp Giấy phép môi trường (GPMT) là phân vùng môi trường, quy hoạch BVMT, khả năng chịu tải của môi trường, quy chuẩn môi trường và các quy định khác. Cấp phép này cần phải qua hội đồng đánh giá và kiểm tra thực tế. Quy định như vậy sẽ dẫn đến nguy cơ dự án đã có ĐTM được phê duyệt, đã thực hiện đúng ĐTM trong khi xây dựng, nhưng đến khi vận hành vẫn không được cấp GPMT. Điều này sẽ tạo rủi ro rất lớn cho dự án đầu tư dù chủ đầu tư đã thực hiện đúng ĐTM được phê duyệt. Khi đó, chủ đầu tư sẽ buộc phải tìm mọi cách để được cấp phép nên càng làm gia tăng nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực khi cấp phép.

Đáng lẽ ra, các yếu tố về phân vùng, quy hoạch, sức chịu tải… phải được giải quyết trong giai đoạn ĐTM. Sau đó, nếu dự án thực hiện đúng ĐTM thì phải được cấp phép. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi lại quy định theo hướng cơ sở để cấp GPMT lần đầu đối với các dự án đã có ĐTM là chủ đầu tư thực hiện đúng ĐTM trong giai đoạn xây dựng.

  • Thời hạn và gia hạn giấy phép môi trường

Dự thảo hiện quy định thời hạn của giấy phép môi trường tối đa là 10 năm. Theo giải trình của cơ quan soạn thảo, việc quy định thời hạn giấy phép nhằm có thể dần dần nâng cao các yêu cầu bảo vệ môi trường theo thời gian, giúp bảo vệ tốt hơn môi trường sống trong lành cho người dân. Việc không xác định thời hạn của ĐTM như hiện nay dẫn đến nguy cơ các dự án ngày nay vẫn được áp dụng các yêu cầu bảo vệ môi trường như 30 năm trước đây, khi mà các yêu cầu này còn rất thấp, không phù hợp với nhu cầu mới của xã hội.

Khi gia hạn, cơ quan nhà nước có quyền từ chối cấp phép nếu trong thời gian trước đó có sự thay đổi về phân vùng môi trường, quy hoạch môi trường, xác định sức chịu tải của môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường… Đây là các yếu tố thay đổi do ngoại cảnh, không phải là lỗi của chủ đầu tư. Như vậy, sẽ dẫn đến nguy cơ là chủ đầu tư không hề có lỗi nhưng vẫn phải đóng cửa dự án chỉ sau một thời gian hoạt động, trong khi một dự án có thể được cấp đất, cấp giấy phép đầu tư lên đến 50, thậm chí 70 năm. Vô hình chung, quy định này sẽ đẩy các chủ đầu tư vào thế đầy rủi ro. Để đối phó, sẽ có tình trạng các chủ đầu tư chỉ chú trọng kinh doanh trong ngắn hạn, mua máy móc cũ, khấu hao nhanh để tránh nguy cơ phải đóng cửa dự án nếu Nhà nước có thay đổi chính sách môi trường.

Do đó, VCCI đề nghị quy định GPMT có thời hạn tối thiểu là 10 năm (trừ khi nhà đầu tư đề nghị ngắn hơn) để bảo đảm yên tâm cho nhà đầu tư. Khoảng thời gian 10 năm là phù hợp để nhà đầu tư khấu hao máy móc, thiết bị và cũng tương ứng với một kỳ chiến lược, quy hoạch quốc gia. Sau 10 năm cũng là lúc cơ quan nhà nước thay đổi quy hoạch và doanh nghiệp sẽ đáp ứng theo quy hoạch mới.

  • Nội dung đề nghị cấp GPMT và nội dung GPMT

Điều 47 và 48 của Dự thảo quy định về nội dung đề nghị cấp GPMT và nội dung của GPMT quá dài dòng. Phần lớn các nội dung trong đề nghị cấp phép đã có trong báo cáo ĐTM, không cần thiết yêu cầu doanh nghiệp phải lập lại hay kê khai, thuyết minh lại. Trong quá trình soạn thảo, cơ quan soạn thảo thuyết minh rằng GPMT không làm gia tăng thủ tục hành chính mà chỉ là việc tích hợp nhiều giấy phép lại với nhau. Do đó, phạm vi nội dung GPMT cũng chỉ nên dừng lại việc tổng hợp nội dung của các giấy phép đã có về chất thải, nhập khẩu phế liệu, quan trắc, ứng phó sự cố; không nên mở rộng ra các nội dung khác.

  1. Thời gian làm thủ tục hành chính

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp phản ánh tình trạng thời gian làm thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường kéo rất dài, hơn rất nhiều so với các lĩnh vực khác, có cùng yếu tố kỹ thuật như xây dựng, phòng cháy chữa cháy. Ví dụ, một dự án nhanh nhất sẽ mất 45 ngày để thẩm định báo cáo ĐTM, 20 ngày để phê duyệt báo cáo ĐTM, thêm 45 ngày để xin cấp GPMT. Đây là những khoảng thời gian quá dài một cách không cần thiết. Nếu hội đồng thẩm định đã đồng ý với toàn bộ báo cáo ĐTM thì không hiểu sao cơ quan nhà nước vẫn cần đến 20 ngày mới phê duyệt? Việc cấp GPMT là nhập của nhiều loại giấy phép như xác nhận hoàn thành công trình, xin cấp phép xả thải… Những thủ tục này hiện nay chỉ được thực hiện trong 10 – 20 ngày. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo thực hiện chủ trương đơn giản hoá thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin để giải quyết công việc và rút ngắn thời gian làm thủ tục xuống còn 20 ngày đối với phê duyệt ĐTM và 10 ngày đối với cấp phép môi trường.

Thêm vào đó, quy định của dự thảo hiện đang coi phê duyệt báo cáo ĐTM là cơ sở để làm thủ tục thẩm định thiết kế xây dựng và nhiều thủ tục khác. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả là thủ tục này phải chờ thủ tục kia, cuối cùng là tổng thời gian làm thủ tục hành chính kéo rất dài. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp làm nhiều thủ tục hành chính cùng một lúc, không phải làm thủ tục này rồi mới được làm thủ tục khác.

Trên đây là một số ý kiến tổng hợp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về các dự án luật được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2020). Kính mong Quốc hội nghiên cứu, cân nhắc.

Trân trọng cảm ơn./.

[1] Theo ước tính, tổng số vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là 15 triệu tỷ đồng. Với mức thu 0,02% giá trị tài sản, nguồn có thể thu từ doanh nghiệp vào khoảng 3.000 tỷ đồng mỗi năm. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018 cả nước hiện có khoảng 54 triệu người lao động, với 23,5 triệu người có hưởng lương và 30,5 triệu người không hưởng lương. Với mức đóng 01 ngày lương mỗi người mỗi năm theo lương tối thiểu vùng năm 2018 (lấy mức thấp nhất là 100.000 đồng/ngày) thì tổng số thu từ người lao động có lương vào khoảng 2.350 tỷ đồng. Số thu từ người lao động không hưởng lương vào khoảng 457 tỷ đồng. Như vậy, tổng thu lớn nhất năm 2018 có thể đạt là 5.807 tỷ đồng.

[2] Dự thảo còn có thêm “điều kiện đầu tư kinh doanh”. Tuy nhiên chế định về “điều kiện đầu tư kinh doanh” đưa vào trường hợp này là không chuẩn xác, do Luật Đầu tư không quy định về các điều kiện đầu tư kinh doanh, các Luật chuyên ngành mới quy định về vấn đề này và về logic là phải ưu tiên luật chuyên ngành nếu có quy định khác biệt giữa Luật chuyên ngành với Luật Đầu tư về điều kiện đầu tư kinh doanh.

Các văn bản liên quan