Góp ý của Luật gia Vũ Xuân Tiền – Ủy viên Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam

Thứ Năm 11:38 08-04-2010

 

 MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP Ý

VÀO DỰ THẢO  LUẬT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

(Bản dự thảo tháng 3 năm 2010)

------------------------

 

                                                      Luật gia Vũ Xuân Tiền

                                                          Ủy viên BCH Hội Luật gia Hà Nội

  I- Nhận xét chung

Là Ủy viên BCH Hội Luật gia Hà Nội, có hơn 20 năm làm kế toán trưởng, giám đốc tài chính trong các doanh nghiệp - lĩnh vực có liên quan đến kế toán, kiểm toán và là cộng tác viên thường xuyên của Ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tôi đã được VCCI chuyển cho Dự thảo Luật Kiểm toán độc lập (bản dự thảo tháng 12/2009). Tôi đã có bản góp ý với 18 vấn đề cụ thể gửi Ban soạn thảo qua VCCI và để rộng đường dư luận, tôi đã viết bài “Dự thảo Luật Kiểm toán độc lập: Cần đảm bảo minh bạch và khả thi” đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 9 ngày 25/2/2010.

Tiếp thu các ý kiến góp ý, Ban soạn thảo đã có bản Dự thảo mới – Bản dự thảo tháng 3/2010. Nghiên cứu bản dự thảo tháng 3/2010, xin có một số nhận xét chung như sau:

1.      Trong giai đoạn hiện nay, ban hành Luật KTĐL là cần thiết khách quan và cấp bách. Là cần thiết khách quan vì: Sau 18 năm có mặt tại thị trường Việt Nam, KTĐL đã có sự phát triển nhất định về số lượng, quy mô, năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ. Song, nhìn thẳng vào sự thật có thể thấy, KTĐL đã và đang bộc lộ những hạn chế lớn, đó là: Quy mô của thị trường KTĐL còn nhỏ, số lượng kiểm toán viên còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên và chất lượng dịch vụ kiểm toán chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; sự phối hợp quản lý nhà nước với tổ chức nghề nghiệp kiểm toán viên hành nghề chưa phát huy kết quả thiết thực; tình trạng vi phạm đạo đức hành nghề còn xẩy ra không ít… Là cấp bách bởi vì, 18 năm qua, trong khi  rất nhiều lĩnh vực đã được điều chỉnh bằng Luật như Doanh nghiệp, Đầu tư, Kinh doanh bất động sản, Kế toán, Chứng khoán, v.v… thì hoạt động KTĐL vẫn chỉ được điều chỉnh bằng Nghị định của Chính phủ. Điều đó tạo ra sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế, chưa tương xứng với vai trò, vị trí của KTĐL trong kinh tế thị trường. Hơn nữa, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều lần nhưng Nghị định về KTĐL vẫn chưa toàn diện…

2.      Soạn thảo Luật Kiểm toán độc lập là công việc vô cùng khó khăn. Bởi lẽ, Luật Kiểm toán độc lập là luật chuyên ngành sâu, có tác động trong một phạm vi rộng. Vì vậy, với việc hoàn thành nhiều dự thảo khác nhau, trên cơ sở tiếp thu ý kiến góp ý của nhiều đối tượng, Ban soạn thảo Luật Kiểm toán độc lập đã có rất nhiều cố gắng. Đó là những kết quả rất đáng trân trọng.

3.      Bản dự thảo tháng 3/2010 so với dự thảo tháng 12/2009 đã có nhiều thay đổi theo hướng đảm bảo sự minh bạch và tính khả thi cao hơn. Kỹ thuật văn bản tương đối tốt.

 

II- Một số ý kiến góp ý cụ thể cho dự thảo tháng 3/2010

Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng của dự thảo Luật trước khi trình Quốc hội, với tinh thần triệt để thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, xin được nêu một số ý kiến góp ý cho dự thảo Luật Kiểm toán độc lập (bản dự thảo tháng 3/2010- sau đây xin gọi tắt là Dự thảo Luật) như sau:

1.      Về giải thích từ ngữ tại Điều 4 Dự thảo Luật:

Đề nghị:

-         Nghiên cứu lại khái niệm về Kiểm toán viên hành nghề tại khoản 3.Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông, “Hành nghề” là làm công việc thuộc về nghề nghiệp để sinh sống. Vì vậy, khái niệm về kiểm toán viên hành nghề như trong dư thảo Luật là không đúng. Câu hỏi được đặt ra là: nếu theo khái niệm của dự thảo Luật thì những người có chứng chỉ kiểm toán viên nhưng đang làm việc tại bộ phận Kiểm toán nội bộ của một Ngân hàng thương mại hay công ty cổ phần đại chúng thì có được coi là đang hành nghề không? Không có lý do gì để cho rằng những người đó đang không hành nghề. Từ đó, Kiểm toán viên hành nghề là những người có chứng chỉ kiểm toán viên và đang làm nghề kiểm toán.

-         Nghiên cứu lại khái niệm về doanh nghiệp kiểm toán tại khoản 4. Theo Luật Doanh nghiệp, cần sửa lại khái niệm về doanh nghiệp kiểm toán như sau: “Là doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp đủ các điều kiện kinh doanh theo Luật này và các văn bản pháp luật có liên quan”. Đây là vấn đề rất quan trọng, không phải là câu chữ mà liên quan chặt chẽ đến các điều khoản sau của Dự thảo Luật.

-         Đề nghị giải thích thêm về các dịch vụ có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán”. Bởi lẽ, khoản 3 Điều 36 Dự thảo Luật quy định một trong những trường hợp doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện dịch vụ kiểm toán là “Đang thực hiện hoặc đã thực hiện trong năm trước liền kề các dịch vụ có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán”. Trong khi đó, trong toàn bộ dự thảo Luật chưa có quy định nào về “các dịch vụ có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán”.

2.      Về giá trị của báo cáo kiểm toán tại Điều 6 Dự thảo Luật:

Xin đề nghị:

-         Đổi tiêu đề của điều khoản là “Giá trị pháp lý của Báo cáo kiểm toán” vì điều khoản này không quy định giá trị tính bằng tiền của Báo cáo kiểm toán.

-         Khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật quy định Báo cáo kiểm toán xác nhận tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính….” Đề nghị bổ sung thêm “Báo cáo kiểm toán xác nhận tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của báo cáo tài chính….”. Bởi lẽ, tính trung thực, hợp lý là rất quan trọng, song một Báo cáo tài chính sẽ là vô nghĩa nếu chỉ trung thực, hợp lý nhưng không hợp pháp.

-         Khoản 3 Điều 6 quy định:3. Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền và cá nhân khác khi sử dụng báo cáo kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định sử dụng báo cáo kiểm toán của mình”. Quy định tại khoản trên là không hợp lý nhằm né tránh trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán. Chẳng hạn, một báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính của một công ty cổ phần đại chúng được công bố công khai, các nhà đầu tư có quyền sử dụng Báo cáo kiểm toán này để quyết định mua cổ phiếu của công ty đó. Song, do báo cáo kiểm toán có những số liệu sai sự thật và gây hậu quả cho nhà đầu tư thì ai chịu trách nhiệm trước pháp luật? Hơn nữa, quy định tại khoản nêu trên mâu thuẫn với khoản 4 Điều 35.

 

3.      Về khuyến khích kiểm toán

Điều 9 của Dự thảo Luật quy định: Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hoặc báo cáo quyết toán dự án hoàn thành và các công việc kiểm toán khác trước khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính”. Quy định như trên là một khẩu hiệu, không cần thiết. Vì vậy, đề nghị bỏ Điều này hoặc chuyển xuống Điều 69 với nội dung “Chính phủ ban hành những chính sách ưu đãi cần thiết để khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hoặc báo cáo quyết toán dự án hoàn thành và các công việc kiểm toán khác trước khi nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính”.

4.      Về quản lý nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập

Tiết d, khoản 2 Điều 10 quy định một trong những trách nhiệm của Bộ Tài chính là d) Cấp, đình chỉ, thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp kiểm toán trong nước; chấp thuận thành lập chi nhánh hoặc công ty của doanh nghiệp kiểm toán ở nước ngoài”.

      a. Xin đề nghị bỏ điều khoản này. Kiến nghị nêu trên xuất phát từ những lý do sau:

-         Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “ Công dân được quyền kinh doanh trong những lĩnh vực nhà nước không cấm”. Kiểm toán độc lập là một ngành kinh doanh có điều kiện. Khi doanh nghiệp hội đủ các điều kiện kinh doanh thì đương nhiên được quyền kinh doanh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh của mình. Hơn nữa, nếu duy trì “Giấy phép” thì câu hỏi đặt ra là: nếu doanh nghiệp dịch vụ KTĐL vi phạm pháp luật trong quá trình kinh doanh, người “cho phép” có chịu trách nhiệm trước pháp luật không? Câu trả lời chắc chắn là: Không. Vì vậy, không nên duy trì “Giấy phép thành lập và hoạt động”.

-         Việc ban hành Luật Doanh nghiệp, trả lại quyền kinh doanh cho công dân là một thành tựu vĩ đại của Đảng và Nhà nước ta trong hơn hai mươi năm đổi mới. Vì vậy, không nên để các Luật chuyên ngành tiếp tục “gặm nhấm” và làm vô hiệu Luật Doanh nghiệp;

-         Xóa bỏ cơ chế xin – cho là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc cải cách hành chính của nước ta. Vì vậy, Luật không thể và không nên cho phép duy trì một loại Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp – một sản phẩm điển hình của cơ chế xin – cho.

-         Khác với các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, doanh nghiệp kiểm toán không chỉ cung ứng dịch vụ kiểm toán mà còn được phép kinh doanh các lĩnh vực khác. Chẳng hạn, có công ty kiểm toán đồng thời kinh doanh cả dịch vụ tin học, tư vấn về nguồn nhân lực, đào tạo ngắn hạn về quản trị kinh doanh, v.v… Những lĩnh vực kinh doanh đó không thuộc sự quản lý về chuyên môn của Bộ Tài chính. Do đó, quy định “Giấy phép thành lập và hoạt động” đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là không hợp lý.

  1. Đề nghị phục hồi khoản 3 Điều 10 trong Dự thảo tháng 12/2009 :“ Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ Tài chính được ủy quyền một phần công việc cho Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán”.

5.      Về Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán

Điều 11 Dự thảo Luật quy định về Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán. Song, Điều 1 Dự thảo Luật về Phạm vi điều chỉnh lại quy định: “Luật này quy định về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hành nghề kiểm toán độc lập; quyền, nghĩa vụ của kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán và đơn vị được kiểm toán; hoạt động hành nghề kiểm toán độc lập”. Như vậy, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật này. Do đó, quy định tại Điều 11 có cần thiết không? Nếu là cần thiết thì khoản 2 Điều 11 cần bổ sung thêm một nhiệm vụ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là “Làm thủ tục đăng ký hành nghề, kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán theo ủy quyền của Bộ Tài chính”.

6.      Về hình thức hành nghề của Kiểm toán viên

Điều 15 Dự thảo Luật quy định về hình thức hành nghề của Kiểm toán viên.

Xin đề nghị bổ sung như sau:

1. Kiểm toán viên chỉ được hành nghề trong doanh nghiệp kiểm toán, trong bộ phận Kiểm toán nội bộ của các doanh nghiệp và không được hành nghề kiểm toán với tư cách cá nhân.

2. Kiểm toán viên hành nghề trong doanh nghiệp kiểm toán được thực hiện bằng việc:

a) Thành lập hoặc cùng tham gia thành lập doanh nghiệp kiểm toán;

b) Làm việc theo hợp đồng lao động với doanh nghiệp kiểm toán.

c) Làm việc theo hợp đồng lao động trong bộ phận Kiểm toán nội bộ của một doanh nghiệp được thành lập hợp pháp.

7. Về Tiêu chuẩn của kiểm toán viên hành nghề, đăng ký hành nghề kiểm

 Tiết b, khoản 1 Điều 16 đề nghị bổ sung thêm:

b) Có hợp đồng lao động làm việc trong một doanh nghiệp kiểm toán hoặc trong bộ phận Kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam quy định không phải áp dụng hợp đồng lao động;

8.Thẩm quyền cấp, đình chỉ, thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán

Đề nghị sửa lại Điều 22 là: “Cấp, đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp kiểm toán. Từ đó, nội dung của Điều 22 đề nghị sửa lại như sau:

“Doanh nghiệp kiểm toán thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và chỉ được thực hiện dịch vụ kiểm toán sau khi đã đủ điều kiện kinh doanh, đã đăng ký hành nghề kiểm toán với Bộ Tài chính theo quy định của Luật này”.

Với kiến nghị trên, cụm từ “ Giấy phép thành lập và hoạt động” trong tất cả các điều khoản của DT Luật đề nghị đổi thành “ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.

9. Về Điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán

Đề nghị đổi tên Điều 23 thành “Điều kiện được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp kiểm toán”.

Trong các điều kiện đã quy định tại khoản 1 Điều 23, xin đề nghị nghiên cứu:

-         Doanh nghiệp kiểm toán có nhất thiết phải có vốn pháp định?

-         Quy định “ c) Có ít nhất năm kiểm toán viên đã có thời gian thực tế làm kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ đủ 36 tháng trở lên bao gồm cả Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán thì bao gồm cả Chủ tịch Hội đồng thành viên” là cần thiết để đảm bảo chất lượng của dịch vụ kiểm toán. Song, điều kiện này là quá chặt, thiếu tính khả thi ở nước ta trong khoảng 10 năm tới. Vì vậy, xin đề nghị sửa lại là: c) Có ít nhất ba kiểm toán viên đã có thời gian thực tế làm kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ đủ 24 tháng trở lên, trong đó, Giám đốc (Tổng Giám đốc) hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán phải có chứng chỉ kiểm toán viên và đã có thời gian thực tế làm kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ đủ 36 tháng trở lên”.

Đề nghị nêu trên xuất phát từ những lý do sau:

-         Số lượng kiểm toán viên ở nước ta hiện nay còn rất ít. Do đó, nếu đòi hỏi tối thiểu phải “Có ít nhất năm kiểm toán viên đã có thời gian thực tế làm kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ đủ 36 tháng trở lên” sẽ hạn chế việc thành lập các doanh nghiệp kiểm toán. Trong khi đó, từ khi Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực thi hành, nhu cầu về kiểm toán trong nền kinh tế quốc dân sẽ tăng lên. Vì vậy, cung sẽ nhỏ hơn cầu về kiểm toán và ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

-         Trong hai chức danh Giám đốc (Tổng Giám đốc) và Chủ tịch Hội đồng thành viên của Công ty TNHH kiểm toán, chỉ cần một người trực tiếp điều hành và ký vào các Báo cáo kiểm toán phải có chứng chỉ kiểm toán viên là đủ.

10. Về Tiêu chuẩn, điều kiện của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp kiểm toán

Đề nghị nghiên cứu lại khoản 3 Điều 24 “3. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn kiểm toán, phải góp tối thiểu 10% vốn điều lệ”.  Doanh nghiệp được quyền thuê Giám đốc (Tổng Giám đốc) và không nhất thiết đó phải là thành viên góp vốn. Chẳng hạn, Tổng Giám đốc của Ngân hàng TMCP có thể không phải là cổ đông mà được Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê quản lý.

11. Về Nghĩa vụ của doanh nghiệp kiểm toán

Khoản 3 Điều 34 đề nghị bổ sung thêm như sau: 3. Bồi thường thiệt hại do lỗi mà kiểm toán viên hành nghề hoặc người của tổ chức mình gây ra cho khách hàng, đơn vị được kiểm toán và những người sử dụng Báo cáo kiểm toán do mình phát hành trong khi thực hiện dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác”.

Bổ sung đối tượng được bồi thường gồm cả “ Những người sử dụng Báo cáo kiểm toán do mình phát hành” là cần thiết để đảm bảo chất lượng của dịch vụ kiểm toán và phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 35.

12. Về Trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán

Đề nghị làm rõ hơn nội dung tại khoản 4 Điều 35:

4. Chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng theo hợp đồng kiểm toán đã ký kết và chịu trách nhiệm một phần với người sử dụng kết quả kiểm toán và các dịch vụ đã cung cấp. Doanh nghiệp kiểm toán chỉ chịu trách nhiệm với người sử dụng kết quả kiểm toán khi người sử dụng kết quả kiểm toán:

a) Có lợi ích liên quan trực tiếp tới kết quả kiểm toán của đơn vị được kiểm toán tại ngày ký báo cáo kiểm toán;

b) Có hiểu biết một cách hợp lý về báo cáo tài chính và cơ sở lập báo cáo tài chính là các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan;

c) Đã sử dụng một cách thận trọng thông tin trên báo cáo tài chính đã kiểm toán”

Những vấn đề cần làm rõ trong quy định trên là:

-   Thế nào là “chịu trách nhiệm một phần trách nhiệm với người sử dụng kết quả kiểm toán và các dịch vụ đã cung cấp”?

-   Thế nào là “ Có hiểu biết một cách hợp lý về Báo cáo tài chinh và cơ sở lập báo cáo tài chính là các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan” ?

-   Thế nào là “Đã sử dụng một cách thận trọng thông tin trên báo cáo tài chính đã kiểm toán” ?

Nêu không thể quy định chi tiết những vấn đề trên trong Luật, xin đề nghị quy định “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện khoản này”.

13. Về Tổ chức kiểm toán nước ngoài

Tiết a, khoản 1 Điều 43 đề nghị bổ sung như sau:

a) Thành lập doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam. Điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp kiểm toán được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam cam kết, Luật này và các văn bản hướng dẫn có liên quan”.

14. Về Đơn vị được kiểm toán

Khoản 1 Điều 44 đề nghị bổ sung thêm:

e) Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp có nguồn thu tù Ngân sách Nhà nước, có các khoản vay trung và dài hạn từ các Ngân hàng và tổ chức tín dụng;

g) Các doanh nghiệp, các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT, BTO, hợp tác công – tư (PPP) hoặc có sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), v.v...

15. Về Phạm vi hành nghề của doanh nghiệp kiểm toán

Đề nghị thiết kế lại Điều 47 về phạm vi hành nghề của doanh nghiệp kiểm toán theo hướng:

- Quy định về các dịch vụ kiểm toán;

- Quy định về các dịch vụ mà doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện do có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán

- Quy định rõ: Doanh nghiệp kiểm toán có được thực hiện các hoạt động kinh doanh khác ngoài lĩnh vực kiểm toán như kinh doanh bất động sản, dịch vụ tin học, kinh doanh thương mại, v.v... hay không?

16. Về phí dịch vụ kiểm toán

Đề nghị sửa lại khoản 2 Điều 51 Dự thảo Luật như sau:

“ 2. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn về căn cứ và phương thức xác định phí kiểm toán”.

18. Về các loại ý kiến của kiểm toán viên hành nghề và doanh nghiệp kiểm toán về báo cáo tài chính:

Đề nghị bổ sung khoản 3 Điều 56 quy định về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán trong hai trường hợp có: ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến chấp nhận từng phần tránh tình trạng sử dụng biện pháp “ngoại trừ” quá nhiều có thể gây nhầm lẫn cho người sử dụng Báo cáo kiểm toán.

17. Về kết cấu, đề nghị đổi tên mục 3 thành Kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán bao gồm các Điều từ 58 đến 61 vì:

- Về bản chất, quy định về hồ sơ kiểm toán cũng là nhằm mục đích Kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán;

-  Để mục 4 “ Kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán” chỉ có 01 điều là không thỏa đáng;

18. Về đơn vị có lợi ích công chúng

Qui định về Đơn vị có lợi ích công chúng tại Điều 62 chưa đủ rõ. Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm nội dung “Chính phủ quy định danh mục các đơn vị có lợi ích công chúng trong từng thời kỳ”

19. Về Chấp thuận doanh nghiệp được kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị có lợi ích công chúng

Đề nghị quy định trong khoản 2 Điều 63 về  tiêu chuẩn, điều kiện lựa chọn, thủ tục xem xét, chấp thuận và các trường hợp đình chỉ hoặc huỷ bỏ tư cách doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị có lợi ích công chúng.

Nêu không thể quy định những vấn đề chi tiết như thế trong Luật thì sửa lại khoản 2 thành “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện lựa chọn, thủ tục xem xét, chấp thuận và các trường hợp đình chỉ hoặc huỷ bỏ tư cách doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị có lợi ích công chúng”.

20. Về Báo cáo minh bạch

Đề nghị quy định chi tiết về nội dung báo cáo minh bạch tại khoản 3 Điều 65 ngay trong Luật để hạn chế các văn bản hướng dẫn dưới luật.

21. Về kiểm toán tự nguyện

Thực tế trong những năm vừa qua, một số doanh nghiệp, dù không thuộc đối tượng bắt buộc phải kiểm toán nhưng vẫn ký hợp đồng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập nhằm phục vụ công tác quản trị và đảm bảo sự minh bạch đối với những người đồng sở hữu. Vì vậy, xin đề nghị bổ sung một Điều khoản về Đơn vị được kiểm toán tự nguyện với những nội dung sau:

1.      Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế không thuộc đối tượng bắt buộc phải kiểm toán theo Điều 44 Luật này, có quyền ký hợp đồng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập phục vụ cho công tác quản lý của doanh nghiệp.

2.      Các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán tự nguyện không bắt buộc phải giao kết hợp đồng kiểm toán với doanh nghiệp kiểm toán chậm nhất là 30 ngày trước khi kết thúc kỳ kế toán năm theo khoản 3 Điều 8 Luật này, nhưng vẫn phải tuân thủ các quy định khác có liên quan trong Luật này.

----------------------

Các văn bản liên quan