Bản tổng hợp ý kiến của VCCI về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung NĐ 85/2007/NĐ-CP về Luật quản lý thuế

Thứ Tư 09:50 04-11-2009

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

-------------------------------

Số:                         /PTM-PC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

------------------------------------

Hà Nội, ngày 04 tháng 11  năm 2009

 

 

Kính gửi: BỘ TÀI CHÍNH

 

Ngày 20 tháng 10 năm 2009, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 85/2007/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Quản lý thuế. Thành phần tham gia bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề, các hiệp hội, các luật sư, chuyên gia trong lĩnh vực thuế. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam gửi tới quý Cơ quan các ý kiến góp ý của các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia.

1.      Về kê khai thuế

-         Khai thuế thu nhập cá nhân

Dự thảo đã sửa về khai thuế thu nhập cá nhân từ Pháp lệnh thuế dành cho người có thu nhập cao tới Luật thuế thu nhập cá nhân, tuy nhiên những sửa đổi trong Dự thảo là chưa đầy đủ. Bởi vì, trong Luật thuế thu nhập cá nhân có một số thay đổi toàn diện đó là bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất sang nộp thuế thu nhập đối với chuyển nhượng tài sản, những quy định về khai thuế cũng khác nhau.

Có hai loại khai thuế trong thuế thu nhập cá nhân, đó là: một loại thuế dành cho thu nhập từ tiền lương, tiền công thực hiện khấu trừ tại nguồn hoặc thu nhập từ đầu tư vốn, nhưng thu nhập từ kinh doanh lại là tự khai, có khai theo quý. Như vậy, khai thuế đối với thuế thu nhập cá nhân có 3 loại khai, một là khai theo tháng, hai là khai theo quý, ba là khai theo từng lần phát sinh. Như vậy, trong phần khai phải tách ra từng phần cho phù hợp. Ví dụ: khai thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công thì khai theo biện pháp khấu trừ và khai theo tháng, nhưng đối với tiền lương, tiền công nhận từ nước ngoài lại khai theo tháng cùng với thu nhập từ kinh doanh, nhưng loại khai này lại là khai theo quý. Ngay cả khi nộp nếu thuế thu nhập cá nhân nộp ít hơn sẽ được khai theo quý trong trường hợp từ 5 triệu đồng trở xuống.

Như vậy các yếu tố khai tháng, khai quý, khai từng lần trong thuế thu nhập cá nhân cần phải làm rõ để tương ứng và phù hợp.

-         Khai thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt

Về nội dung của thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt, Dự thảo bổ sung chuyển từ khai thuế nhập khẩu sang khai thuế đối với hàng nhập khẩu là phù hợp, tuy nhiên, để rõ ràng, hợp lý và phù hợp với thực tế, đề nghị tách ra làm hai phần khai thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu và khai thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, sau đó hướng dẫn thì rất cụ thể của hai tổ chức, hai cơ quan khác nhau. Vì trong phần nhập khẩu về, cơ quan quản lý là cơ quan hải quan sẽ thu thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu hàng nhập khẩu. Nhưng đối với hàng xuất khẩu, lại thuộc về cơ quan thuế, làm các thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng xuất khẩu, hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng xuất khẩu rồi nhưng không đảm bảo hoặc những phần đó do cơ quan thuế chịu trách nhiệm.

Về khai thuế giá trị gia tăng: có hai phương pháp khấu trừ và phương pháp khoán. Theo quy định của Nghị định 85, phương pháp khoán, được quy định tại Điều 18. Tuy nhiên, cần phải sửa đổi Điều này cho phù hợp với thu khoán thuế thu nhập cá nhân. Trước kia, các hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề độc lập sẽ nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ 1.1.2009, các hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề độc lập đó sẽ chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân thay cho nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, thuế giá trị gia tăng vẫn nộp theo Luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp lại thay nộp thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân, khai thuế thu nhập cá nhân, khai thuế giá trị gia tăng vào hai thời điểm khác nhau sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.

Riêng về thời điểm khai thuế giá trị gia tăng của đơn vị thuộc cá nhân, hộ kinh doanh cá thể  nộp thuế theo phương pháp trực tiếp cùng thực hiện thuế thu nhập cá nhân, đề nghị liên kết hai thuế này làm một, để cùng thời điểm kê khai, kê khai theo quý.

2.      Những điểm cần quy định rõ trong Dự thảo Nghị định

-         Đề nghị bổ sung quy định cơ quan thuế có quyền ấn định thuế đối với trường hợp nộp thuế chuyển nhượng bất động sản từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà người nộp thuế không xác định đúng giá vốn, chi phí mua nhà hoặc có được quyền sử dụng bất động sản để đảm bảo nhà nước không thất thu thuế. Thực tế hiện nay, trong các văn bản pháp luật về thuế không có quy định về việc cơ quan thuế có quyền ấn định thuế trong trường hợp trên, điều này tạo kễ hở trong gian lận thuế. Ví dụ: nộp thuế chuyển nhượng bất động sản từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hai phương pháp, 2% và 25%. Luật quy định, nếu không tính được giá vốn và chi phí thì áp dụng phương pháp 2%, nếu tính được giá vốn và chi phí, giá chuyển nhượng thì áp dụng 25% trên thu nhập. Luật quy định rõ, giá chuyển nhượng không đúng, cơ quan thuế có quyền ấn định thuế trên cơ sở giá đất do UBND tỉnh ban hành tại thời điểm đó hoặc giá nhà, cơ sở hạ tầng theo quy định hiện hành của Bộ Xây dựng … Tuy nhiên, không có quy định trường hợp người nộp thuế không xác định đúng giá vốn, chi phí mua nhà hoặc có được quyền sử dụng bất động sản thì được quyền ấn định, có nghĩa, trong luật, nghị định, thông tư không có quy định về trường hợp cơ quan thuế có quyền ấn định giá vốn, chi phí phát sinh của hoạt động mua vào của bất động sản. Có những trường hợp, mấy năm trước họ mua đất 1 triệu nhưng bán giá 50 triệu, thì vô hình chung, nếu 25% thì phải nộp 15 triệu/m2, nếu 2% thì họ sẽ chỉ phải nộp 1,2 triệu, giữa 15 tr và 1,2 triệu là rất khác nhau, nếu người nộp thuế bảo rằng không giữ được chứng từ hồ sơ thời xưa, cơ quan thuế có thể ấn định thuế không? Không được phép vì không có quy định. Tính thực thi và không rõ ràng minh bạch sẽ gây khó khăn trong thực tế;

-         Trong phần giải quyết hồ sơ hoàn thuế, cần phải quy định rõ, xác định thế nào được hoàn thuế trước, thế nào được kiểm tra “tiền hoàn hậu kiểm”, “tiền kiểm hậu hoàn”. Đối với các trường hợp, kiểm tra trước hoàn thuế sau, bổ sung khoản 2 Điều 30 Dự thảo Nghị định 85 là hợp lý, tuy nhiên, cần phải quy định rõ các từ ngữ. Ví dụ: trường hợp thuộc diện kiểm tra hồ sơ hoàn thuế tại điểm b khoản 2 Điều 30 Dự thảo Nghị định có bổ sung như sau: “người nộp thuế đề nghị hoàn thuế lần đầu là hoàn thuế lần đầu trên toàn quốc”, Nghị định hiện hành chỉ quy định là người nộp thuế đề nghị hoàn thuế lần đầu. Thực hiện hoàn thuế lần đầu theo Nghị định 85 khi doanh nghiệp mới thành lập có hoàn thuế lần đầu tiên mới thành lập, do mới thành lập chưa có kinh nghiệm nên kiểm tra trước hoàn thuế sau là chính xác, nhưng trường hợp này trong Dự thảo lại quy định “hoàn thuế lần đầu trên toàn quốc” là không rõ ràng, trên toàn quốc có nghĩa có thể có nhiều chi nhánh, công ty, nếu hoàn ở Hà nội, nhưng ở thành phố Hồ Chí Minh chưa hoàn thuế thì giải quyết như thế nào? Tại sao lại phải hoàn thuế trên toàn quốc? Nếu doanh nghiệp có một điểm hoàn thuế mà lần đầu tiên hoàn thì sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn. Nếu cho rằng, đây là việc hoàn thuế đối với những đơn vị có những chi nhánh, công ty hoạch toán trên toàn quốc đa dạng thì từ đó phải thay lại để dễ hiểu. Đề nghị Dự thảo quy định rõ để tạo cách hiểu thống nhất giữa cơ quan làm thuế và doanh nghiệp;

-         Tại điểm 3 Điều 30, các trường hợp giải quyết hồ sơ hoàn thuế chậm do lỗi của cơ quan thuế thì ngoài số thuế được hoàn theo quy định người nộp thuế còn được trả lãi và xử lý các vi phạm này Thông tư 49. Nhưng, có một vấn đề đặt ra, đó là nguồn tiền lãi được lấy từ quỹ hoàn thuế theo quy định của Bộ tài chính, đây là trường hợp giải quyết do lỗi của cơ quan thuế nên số tiền được trừ không thể lấy từ nguồn của quỹ hoàn thuế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính được mà phải lấy từ các khoản chi của cơ quan thuế, nếu cán bộ thuế gây ra phải trừ vào tiền lương hoặc các khoản khác của cán bộ, ở đây lại ghi là Quỹ hoàn thuế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đã là quỹ hoàn thuế là phải thanh quyết toán theo ngân sách. Quy định như vậy là chưa hợp lý. Đề nghị Dự thảo Nghị định xem xét.

3.      Bên cạnh các ý kiến tham luận trực của các đại biểu tại Hội thảo, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận được ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia thông qua Phiếu khảo sát. Các ý kiến góp ý tập trung vào các vấn đề sau:

3.1.                       Về đăng ký thuế, khai thuế, tính thuế

a)     Về quy định chung

-         Đề nghị cho phép sửa đổi tăng, giảm thuế giá trị gia tăng đầu vào trong phần mềm hồ sơ khai thuế

-         Một số chỉ tiêu trên tờ khai như điều chỉnh tăng, giảm … chưa có hướng dẫn lập rõ ràng, đề nghị quy định cụ thể;

-         Nhiều thông tin về doanh nghiệp đã có trong bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nộp đính kèm, không cần kê khai;

b)     Về các thủ tục còn có vướng mắc, sửa đổi

-         Thủ tục kê khai khấu trừ thuế: đề nghị được kê khai khấu trừ theo số thuế trên hóa đơn mà không cần phải có xác nhận của Cục thuế của đơn vị bên bán (đối với các hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng 50% nhưng vẫn ghi hóa đơn theo thuế suất chưa giảm) trách nhiệm nộp đúng số thuế trên hóa đơn thuộc về đơn vị bán hàng. Việc phải có xác nhận của Cục thuế bên bán về việc đơn vị bán đã nộp số thuế theo hóa đơn để được khấu trừ là rất khó khăn;

-         Cơ quan thuế phải công khai các thông tin về thủ tục, các văn bản pháp luật, hồ sơ liên quan và hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp nộp hồ sơ được thực hiện thuận lợi 1 lần, không phải đi lại nhiều lần;

-         Đề nghị được nộp tờ khai bổ sung bất kì thời điểm nào phát hiện ra sai sót mà không bị phạt vì bị coi là chậm nộp;

-         Đề nghị được điều chỉnh cả phần giá trị gia tăng đầu vào trên tờ khai;

-         Thời gian nộp hồ sơ khai thuế cần phân loại theo doanh nghiệp vừa, nhỏ doanh nghiệp hoạch toán tập trung (tổng công ty, tập đoàn …), đặc biệt đối với hồ sơ quyết toán thuế năm;

c)      Khai thuế giá trị gia tăng

-         Đề nghị khai thuế giá trị gia tăng theo quý

-         Đề nghị cụ thể “tài liệu khác” là tài liệu gì để doanh nghiệp thuận lợi trong thực hiện

-         Về thủ tục nộp tờ khai: Không nên thường xuyên thay đổi mẫu tờ khai gây ra sự phiền phức cho doanh nghiệp

-         Nên cải tiến phương pháp cấp hóa đơn giá trị gia tăng để tạo ra sự thông thoáng

-         Thực tế, phần mềm khai thuế còn thay đổi liên tục gây khó khăn cho doanh nghiệp

-         Việc kê khai bổ sung khi phát hiện ra sai sót trong tờ khai của kỳ trước: nếu sai sót không ảnh hưởng đến số thuế phải nộp của doanh nghiệp thì nên cho doanh nghiệp được điều chỉnh thẳng vào tờ khai kỳ sau (có kèm theo giải trình).

-         Kinh doanh ngoại tỉnh mà không thường xuyên, có thể nên để kê khai tại nơi đăng ký kinh doanh thường xuyên để giảm thủ tục hành chính cho người kinh doanh

d)     Khai thuế thu nhập doanh nghiệp

-         Đề nghị phân loại người nộp thuế để có quy định cho phù hợp, giảm bớt thời gian và giấy tờ cho doanh nghiệp;

-         Việc khai quyết toán thuế: Đề nghị xem xét lại thời gian nộp quyết toán thuế cho phù hợp;

-         Tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp không rõ ràng, có thể gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp khi kê khai;

3.2.                       Về gia hạn nộp thuế

-         Đề nghị quy định về những mức cụ thể của mức thuế để phân cấp cấp có thẩm quyền phê duyệt, để giảm thời gian cho doanh nghiệp;

-         Quy định rõ về nguyên nhân khách quan;

3.3.                       Ấn định thuế

-         Cần quy định cụ thể “có dấu hiệu bỏ trốn hoặc phát tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thuế”;

-         Đề nghị bỏ trường hợp: đã nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan quản lý thuế nhưng không tự tính được số thuế phải nộp

3.4.                       Các quy định khác

-         Thủ tục mua hóa đơn: cục thuế hiện đang căn cứ báo cáo số lượng hóa đơn dùng tháng trước để xuất bán nhưng có doanh nghiệp hoạt động có tính chất mùa vụ, tháng trước có thể dùng rất ít, nhưng tháng sau lại dùng rất nhiều, mỗi lần mua thêm lại phải công văn đề nghị bán bổ sung, có tháng doanh nghiệp phải làm công văn đến 2 lần mà vẫn không đủ hóa đơn dùng. Đề nghị ban soạn thảo lưu ý đến các trường hợp này;

-         Thủ tục xác nhận số nộp ngân sách hàng năm: hiện nay, có doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian để được xác nhận đã nộp bao nhiêu tiền thuế trong năm, chưa kể có những chứng từ nộp thuế có nhầm lẫn về chủng loại, khoản mục mà doanh nghiệp chưa được cập nhật kịp thời;

-         Đề nghị cho doanh nghiệp tự chủ trong việc in hóa đơn để tạo thuận lợi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.

Trên đây là các ý kiến góp ý của các doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia về Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 85/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý thuế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét để hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan.

 

Nơi nhận:

-          Như trên

-         Lưu VT, PC

T/L. CHỦ TỊCH

TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ

 

 

 

 

TRẦN HỮU HUỲNH

 

 

 

 

 

Các văn bản liên quan