Bản tổng hợp ý kiến góp ý của VCCI

Thứ Tư 08:45 07-10-2009

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

------------------------------

Số: 2935 /PTM-PC

V/v: góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-----------------------------------

Hà Nội, ngày 06 tháng 10 năm 2009

Kính gửi: BỘ TƯ PHÁP

Phúc đáp Công văn số 3251/BTP-PLDSKT của Bộ Tư pháp đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở các ý kiến chuyên gia được hỏi ý kiến, có một số ý kiến góp ý như sau:

1. Về quy định hướng dẫn giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường và vấn đề hoàn trả

1.1. Điều 9 Dự thảo quy định khá cụ thể thời gian xác minh thiệt hại và người trực tiếp tổ chức việc xác minh thiệt hại (người đại diện thực hiện việc giải quyết bồi thường – khoản a Điều 7 Dự thảo Nghị định), tuy nhiên, chưa quy định chi tiết nguyên tắc, cách thức khi tiến hành xác minh thiệt hại. Trong khi, thực tiễn việc xác định thiệt hại làm căn cứ xác định mức bồi thường trong nhiều trường hợp gặp rất nhiều khó khăn và gây ra tình trạng bồi thường kéo dài do thiếu những quy định về căn cứ, nguyên tắc, cách thức khi tiến hành xác minh thiệt hại. Để khắc phục những tồn tại, bất cập đó trong việc bồi thường thiệt hại (cả lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án), đề nghị Dự thảo Nghị định quy định cụ thể hơn về việc xác minh thiệt hại để có thể áp dụng được ngay hoặc làm căn cứ để Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục tiến hành xác minh thiệt hại trong lĩnh vực quản lý hành chính và thi hành án dân sự;

1.2. Khoản d Điều 10 Dự thảo quy định người thực hiện chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường gồm có: “những người khác do pháp luật quy định”. Do đây là Nghị định hướng dẫn thi hành do đó không nên có quy định “những người khác do pháp luật quy định” mà nên quy định theo hướng liệt kê chi tiết, cụ thể những người thực hiện chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường;

1.3. Điều 11 Dự thảo đã quy định khá chi tiết về việc trả lại tài sản. Tuy nhiên để bảo đảm quyền tài sản của người bị thiệt hại và nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ, cần có quy định bồi thường thiệt hại (quy giá trị tài sản thành tiền) nếu tài sản bị thất thoát, hư hỏng trong quá trình các cơ quan nhà nước thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu;

1.4. Về xác định mức hoàn trả (Điều 16 Dự thảo): khoản 1 Điều 57 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định căn cứ xác định mức hoàn trả bao gồm: Mức độ lỗi của người thi hành công vụ; Mức độ thiệt hại đã gây ra; Điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ. Điều 16 Dự thảo Nghị định quy định “việc xác định mức hoàn trả được thực hiện theo các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và theo các nguyên tắc sau đây: “1. Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại…. 2. Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại…”. Như vậy, các nguyên tắc trên về bản chất là cụ thể hóa mức độ lỗi của người thi hành công vụ. Để hướng dẫn đầy đủ những nội dung liên quan đến việc xác định mức hoàn trả thì các căn cứ xác định mức hoàn trả dựa trên mức độ thiệt hại đã gây ra và điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ trong Khoản 1 Điều 57 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng cần phải được quy định chi tiết. Đề nghị Dự thảo bổ sung các quy định chi tiết về mức độ thiệt hại và điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ dùng làm căn cứ xác định mức hoàn trả, để tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng, thi hành;

1.5. Khoản 1 Điều 19 Dự thảo quy định: “Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại phải thực hiện đúng thời hạn, mức và phương thức hoàn trả ghi trong quyết định hoàn trả”. Để tạo thuận lợi và thống nhất trong áp dụng, đề nghị Dự thảo ban hành biểu mẫu về Quyết định hoàn trả.

1.6. Điều 63 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định: “Cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải nộp đầy đủ, kịp thời toàn bộ khoản tiền hoàn trả vào ngân sách nhà nước. Việc quản lý, sử dụng tiền hoàn trả thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Để thống nhất với Điều 63 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Khoản 4 Điều 19 Dự thảo cần quy định đầy đủ và chính xác là: “Số tiền hoàn trả phải được theo dõi, quản lý và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước”;

1.7. Điều 20 Dự thảo quy định về xử lý người thi hành công vụ cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả. Để bảo đảm việc hoàn trả được thực hiện kịp thời, cần quy định cụ thể thời gian thông báo quyết định hoàn trả đến người hoàn trả; quy định cụ thể thời hạn thông báo (lần thứ hai, lần thứ ba) về nghĩa vụ hoàn trả tới người thi hành công vụ để làm căn cứ xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 20 (Người thi hành công vụ đã được cơ quan có trách nhiệm bồi thường thông báo đến lần thứ ba về nghĩa vụ của mình mà cố tình không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả thì bị kỷ luật theo quy định của pháp luật);

1.8. Khoản 2 Điều 20 Dự thảo quy định: “Trường hợp người thi hành công vụ đã chuyển công tác tại cơ quan khác trong bộ máy nhà nước thì cơ quan nhà nước đó có trách nhiệm đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả và quyết định biện pháp xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này”. Để phù hợp với thực tế quản lý cán bộ, công chức và người lao động trong các cơ quan, tổ chức nhà nước hiện nay, nên sửa đổi nội dung trên thành “Trường hợp người thi hành công vụ đã chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức nhà nước khác thì cơ quan, tổ chức nhà nước đó có trách nhiệm đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả và quyết định biện pháp xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này”;

1.9. Điều 20 Dự thảo quy định xử lý người thi hành công vụ cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả, tuy nhiên, khoản 3 Điều 20 Dự thảo lại quy định: “Trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan nhà nước thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện các biện pháp thu hồi khoản tiền hoàn trả theo quy định của pháp luật”. Đây không phải là biện pháp xử lý mà chỉ là yêu cầu bên có liên quan thực hiện nghĩa vụ tài sản. Vì vậy, nên tách khoản 3 Điều 20 Dự thảo quy định về xử lý người thi hành công vụ cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả trong Dự thảo Nghị định thành một điều riêng quy định về việc thu hồi tài sản trong trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, quy định “Trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan nhà nước thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện các biện pháp thu hồi khoản tiền hoàn trả theo quy định của pháp luật” sửa đổi thành “Trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện các biện pháp thu hồi khoản tiền hoàn trả theo quy định của pháp luật”.

2. Về điều kiện bảo đảm việc tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường

Theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường được giao cho các cơ quan nhà nước. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án.

Dự thảo quy định theo hướng trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường được giao cho các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương theo nguyên tắc cơ quan nhà nước cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý về công tác bồi thường đối với cơ quan cấp dưới. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án. Nhiều nội dung quản lý nhà nước về bồi thường được giao cụ thể cho các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, trong đó, có một trong những nhiệm vụ quan trọng và rất khó trong quản lý nhà nước về bồi thường là xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại yêu cầu hoặc có sự không thống nhất về trách nhiệm giải quyết bồi thường (từ Điều 23 đến Điều 26 Dự thảo quy định giao chức năng này cho các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp). Như vậy, cần nghiên cứu kỹ việc thành lập đơn vị mới chuyên làm chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường. Việc thành lập đơn vị mới sẽ làm tăng bộ máy, tăng biên chế trong khi hiện nay chúng ta đang tiến đến mục tiêu tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính nhà nước. Nên chăng, chức năng này nên giao cho một đơn vị thuộc cơ cấu hiện có của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp thực hiện.

Trên đây là một số ý kiến góp ý của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, rất mong cơ quan soạn thảo xem xét và hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng cảm ơn!

Nơi nhận:

- Như trên

- Lưu VT, PC

T/L. CHỦ TỊCH

TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ

(Đã ký)

TRẦN HỮU HUỲNH

Các văn bản liên quan