Góp ý của Ông Nguyễn Minh Chí – Chủ tịch Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam

Thứ Năm 15:27 17-08-2006


Tại khoản 4 Điều 7 quy định “Tổ chức, cá nhân là sáng lập viên có uy tín, năng lực tài chính” đề nghị làm rõ tiêu chí xác định là “có uy tín” và “có năng lực tài chính”, văn bản nào quy định vấn đề này? Cần cụ thể và rõ ràng hơn.

Điều 8: Quyền của Sở Giao dịch hàng hoá: cần sửa thành “quyền hạn của Sở Giao dịch hàng hoá cho phù hợp”.

Điều 9: Nghĩa vụ của Sở Giao dịch hàng hoá: cần sửa thành “Trách nhiệm của Sở Giao dịch hàng hoá” cho phù hợp với Luật Thương mại 2005.

 Khoản 1 Điều 10 quy định: “Các hàng hoá được giao dịch tại Sở Giao dịch hàng hoá”: không nên đưa khoản này vào Nghị định vì quy định này đã do Bộ trưởng Bộ Thương mại quy định và danh mục có thể thay đổi

Khoản 6 Điều 10: “Mức ký quỹ ban đầu của thành viên môi giới và điều kiện, thủ tục ký quỹ bổ sung”: Luật Thương mại quy định ký quỹ nhưng không quy định ký quỹ bổ sung. Nên xem lại vấn đề này.

Khoản 7 Điều 10: “Mẫu hợp đồng chuẩn đối với việc mua bán các hàng hoá cụ thể” không nên đưa vào điều lệ vì không phù hợp với tính chất của điều lệ.

Khoản 4 Điều 11: “…phương thức thanh toán cho các giao dịch qua Sở giao dịch hàng hoá” nên bỏ vì vấn đề này đã quy định tại khoản 2 Điều 10: “Quy trình thực hiện các giao dịch mua bán hàng hoá”.

Khoản 1 Điều 12: quy định “…phải thông báo cho tổ chức, cá nhân…”: ở đây là phải thông báo cho người đại diện chứ không phải cho từng tổ chức, cá nhân vì khoản 1 Điều 3 đã xác định Sở Giao dịch hàng hoá tồn tại dưới 2 hình thức: Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.

Cũng tại khoản 1 Điều này trong trường hợp hồ sơ đã hợp lệ rồi thì Bộ Thương mại có phải thông báo không? Cần quy định rõ.

Khoản 3 Điều 13: những nội dung lấy ý kiến của các cơ quan, hiệp hội…Liệu các cơ quan quy định tại Điều 13 khoản 1 có thông thạo như nhau về từng nội dung này không? Hay là Bộ Thương mại chỉ lấy ý kiến theo từng vấn đề thuộc chức năng của các cơ quan đó? Cần làm rõ vấn đề này.

Khoản 4 Điều 13 quy định “…phải tổ chức họp thẩm định cùng với đại diện của các cơ quan có liên quan” trường hợp này cần tránh việc “thẩm định của thẩm định” gây mất thời gian và không cần thiết.

Điều 14.Điều kiện hoạt động của thành viên môi giới” cần sửa thành “Điều kiện trở thành thành viên môi giới”

Khoản 3 Điều 14: quy định “các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của Sở Giao dịch hàng hoá được Bộ trưởng Bộ Thương mại phê chuẩn” tiêu chí này không rõ ràng. Hơn nữa đây nên là quy định của pháp luật đối với thành viên môi giới chứ không nên lấy Điều lệ làm chuẩn mực được.

Khoản 1 Điều 16 quy định “Đại diện cho khách hàng thực hiện…giao dịch hàng hoá”: có lẽ là không hợp lý, cần xem lại tính chất và công việc của môi giới.

Khoản 3 Điều 16: Yêu cầu khách hàng ký quỹ: nên xem xét lại, quy định này có lẽ không phù hợp. Người môi giới hay Sở Giao dịch hàng hoá có quyền này?

Điều 17: Nghĩa vụ của thành viên môi giới: cần phân biệt rõ ràng giữa vai trò môi giới và vai trò người nhận uỷ thác, tránh quy định lẫn lộn như Điều 17 Dự thảo này.

Khoản 2 Điều 19: nên bỏ từ “hoặc các quy định của pháp luật”

Khoản 3 Điều 19 nên sửa lại là “Thương nhân là thành viên Sở Giao dịch hàng hoá chấm dứt hoạt động theo các quy định của Luật Doanh nghiệp”.

Các văn bản liên quan