Góp ý Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân
Dự thảo Luật Thương mại điện tử
Kính gửi: Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội
Trả lời Công văn số 932/UBKTTC15 ngày 29/8/2025 của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Thương mại điện tử (sau đây gọi tắt là Dự thảo). Trong thời gian vừa qua Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã nhận được nhiều ý kiến góp ý bằng văn bản của các hiệp hội, doanh nghiệp. Ngày 5/9/2025, VCCI cũng đã phối hợp với Bộ Công thương tổ chức Hội thảo tham vấn ý kiến cộng đồng doanh nghiệp về Dự thảo Luật Thương mại điện tử. VCCI xin tập hợp các ý kiến mà chúng tôi nhận được như sau:
- Thiết kế quy định cần tính đến tính đa dạng của mô hình thương mại điện tử
Nhiều ý kiến các doanh nghiệp phản ánh rằng hoạt động thương mại vốn vô cùng đa dạng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các hoạt động này xuất hiện trên mạng. Tuy nhiên, Dự thảo hiện tại dường như chủ yếu được thiết kế cho mô hình B2C, trong khi trên thực tế còn nhiều mô hình khác như B2B, C2C, mạng xã hội tích hợp thương mại điện tử, hoặc nền tảng đa dịch vụ. Do vậy, Dự thảo cần xây dựng quy định quản lý phù hợp với từng mô hình.
1.1. Mô hình mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử
Khái niệm mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử
Quy định tại khoản 5 và 6 Điều 3 hiện còn trùng lặp, chưa làm rõ sự khác biệt giữa “nền tảng thương mại điện tử trung gian” và “mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử”. Với định nghĩa hiện tại, mạng xã hội dễ bị coi là nền tảng trung gian, trong khi phần lớn mạng xã hội chỉ đơn thuần kết nối và trao đổi thông tin, không tham gia trực tiếp vào giao dịch.
Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng sau:
Điều 3.5: Nền tảng thương mại điện tử trung gian là nền tảng thương mại điện tử được thiết lập với mục đích chính để đóng vai trò trung gian trong việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ giữa các bên thông qua việc:
– Trực tiếp tham gia vào các hoạt động đặt hàng trực tuyến, quản lý thanh toán, triển khai và theo dõi đơn hàng; và
– Nhận thù lao, hoa hồng hoặc các loại phí khác liên quan trực tiếp đến các hàng hóa và dịch vụ được giao dịch trên hoặc thông qua nền tảng.
Nền tảng thương mại điện tử trung gian có một trong các chức năng: mở gian hàng, đặt hàng trực tuyến, tiếp thị liên kết, hoặc phát trực tuyến bán hàng.
Điều 3.6. Mạng xã hội hoạt động thương mại điện tử là nền tảng được thiết lập với vai trò chính là kết nối giữa người bán và người mua, cho phép họ tương tác và chia sẻ thông tin, và có kèm thêm một số tính năng có thể được sử dụng cho mục đích thương mại như: mở gian hàng, đặt hàng trực tuyến, tiếp thị liên kết, hoặc phát trực tuyến bán hàng.
Nghĩa vụ của các nền tảng mạng xã hội (Điều 17)
Mạng xã hội chủ yếu chỉ có chức năng tương tác và thông tin liên lạc. Mạng xã hội không có các trường dữ liệu đặc trưng như tên sản phẩm; giá cả; khối lượng, số lượng, đơn vị. Trong nhiều trường hợp, người dùng mạng xã hội có thể sử dụng các trường dữ liệu về chữ, hình ảnh để đăng tải các thông tin thương mại. Ví dụ, một cá nhân tận dụng chức năng đăng tải chủ đề thảo luận trên diễn đàn sở thích về ô tô để bán phụ kiện ô tô. Dù nội dung của bài viết đó có các thông tin về sản phẩm, giá cả, số lượng hàng hoá, dịch vụ nhưng không hình thành trường dữ liệu riêng cho các nội dung này.
Trong một số trường hợp, mạng xã hội có cung cấp chức năng hỗ trợ thương mại điện tử như có sự trường dữ liệu riêng để đăng tải thông tin về hàng hóa; có sự phân loại giữa nhóm có hoạt động thương mại và nhóm khác… Tuy nhiên, nhìn chung, các chức năng này tương đối hạn chế.
Do vậy, việc quy định trách nhiệm của các mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử cần dựa trên tính năng mà nền tảng cung cấp để có tính khả thi và phù hợp với thực tiễn.
Điều 17 Dự thảo quy định mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử phải thực hiện các nghĩa vụ của nền tảng thương mại điện tử trung gian. Một số nghĩa vụ là chưa thực sự phù hợp, cần cân nhắc như:
- Xác thực điện tử danh tính: Yêu cầu này là không cần thiết. Một là, các tài khoản mạng xã hội đã thực hiện xác thực bằng số điện thoại theo quy định tại Nghị định 147/2024/NĐ-CP. Hai là, mức độ rủi ro của hoạt động thương mại trên mạng xã hội không cao, do phần lớn người bán chỉ đăng tải thông tin, còn quá trình trao đổi, giao dịch được thực hiện giữa người bán và người mua.
- Xác nhận nội dung hợp đồng, lưu trữ nội dung: Các nghĩa vụ trên chỉ có thể thực hiện trong trường hợp giao dịch trực tiếp diễn ra trên nền tảng hoặc nền tảng tạo điều kiện cho thanh toán hoặc hỗ trợ giao dịch.
- Nghĩa vụ liên quan đến đặt hàng trực tuyến: chỉ phù hợp nếu nền tảng có tích hợp chức năng này
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng phân định dựa trên tính năng của nền tảng, cụ thể:
- Trách nhiệm của chủ quản mạng xã hội hoạt động thương mại điện tử:
+ Phân loại và hiển thị dấu hiệu nhận diện tài khoản người bán với tài khoản cá nhân hoặc phi thương mại;
+ Tách biệt nội dung hoạt động thương mại điện tử thành các chuyên mục, vị trí riêng biệt theo nguyên tắc không xen lẫn với nội dung khác trên nền tảng.
+ Gỡ bỏ hoặc hạn chế quyền truy cập vào nội dung bị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác định là vi phạm, trong thời hạn do pháp luật quy định;
+ Hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giám sát và phát hiện hàng hóa, dịch vụ bất hợp pháp được rao bán, và thực hiện các biện pháp xử lý thích hợp, bao gồm tạm treo hoặc xóa tài khoản người bán khi cần thiết;
+ Có cơ chế báo cáo và gỡ bỏ hàng hóa, dịch vụ vi phạm, bao gồm có các công cụ để người dùng và cơ quan chức năng gửi yêu cầu gỡ bỏ;
+ Xác thực danh tính của người bán;
+ Cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, theo yêu cầu và phù hợp với thủ tục pháp lý hiện hành.
– Trường hợp mạng xã hội hoạt động thương mại điện tử trực tiếp tham gia vào việc đặt hàng trực tuyến, quản lý thanh toán hoặc thực hiện đơn hàng; hoặc nhận thù lao, hoa hồng trực tiếp liên quan đến hàng hóa, dịch vụ được giao dịch trên hoặc thông qua nền tảng, chủ quản nền tảng thực hiện các trách nhiệm quy định tại Khoản 1 điều này và Điều 16 Luật này.
1.2. Mô hình thương mại điện tử B2B và C2C
Mô hình nền tảng thương mại điện tử cho phép hoạt động mua bán hàng hóa giữa cá nhân và cá nhân (C2C). Một số doanh nghiệp cho rằng trong mô hình C2C này người bán là cá nhân không kinh doanh, chỉ bán/trao đổi hàng hóa (mới hoặc đã qua sử dụng) phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Các cá nhân này không thường xuyên, không nhằm mục đích kinh doanh.
Thứ nhất, với nền tảng, Điều 13 Dự thảo yêu cầu các nền tảng thương mại điện tử không có chức năng đặt hàng trực tuyến cũng phải thực hiện thủ tục đăng ký. Quy định này không phù hợp với tính chất hoạt động của các nền tảng thương mại điện tử này. Các nền tảng này chỉ cho phép người bán đăng tải thông tin về sản phẩm. Việc giao dịch giữa các bên (giao kết, thanh toán, vận chuyển) đều do hai bên tự thực hiện. Thực chất, các nền tảng thương mại điện tử này chỉ như một kênh quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, có thể hình dung như một “biển rao vặt online”. Các bước quan trọng trong quá trình giao dịch đều không diễn ra trên sàn thương mại điện tử. Vì thế, không có nhiều rủi ro trong mô hình hoạt động này.
Thứ hai, với người bán, quy định tại Điều 20 Dự thảo chưa phù hợp, chẳng hạn:
- Yêu cầu xác thực điện tử với người bán: ví dụ, một sinh viên có nhu cầu thanh lý bàn ghế cũ một lần và có nhu cầu đăng tin tìm người mua. Quá trình đăng tin sẽ phức tạp hơn nhiều nếu phải xác thực thông tin. Đồng thời, yêu cầu này cũng quá mức cần thiết vì đây chỉ là đăng tin rao vặt, các bước tiếp theo đến khi kết thúc mua bán đều do hai bên trực tiếp giao dịch, nên rủi ro thấp hơn mô hình B2C có đặt hàng trực tuyến;
- Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa theo nhãn: các hàng hóa sử dụng cá nhân không còn đầy đủ thông tin hoặc không có nhãn. Việc yêu cầu đầy đủ thông tin là cần thiết với mô hình B2C vì hàng hóa bán cho rất nhiều người. Trong trường hợp C2C, hàng hóa chỉ có thể bán với số lượng rất hạn chế, và người mua sẽ chủ động tìm hiểu thông tin trước khi ra quyết định. Do vậy, quy định chỉ nên yêu cầu người bán cung cấp thông tin theo khả năng thực tế.
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo:
- Bỏ thủ tục đăng ký với nền tảng trung gian thương mại điện tử không có chức năng đặt hàng trực tuyến;
- Sửa đổi trách nhiệm người bán cho phù hợp với mô hình C2C, B2B, cụ thể: không yêu cầu xác thực điện tử, cho phép cung cấp thông tin theo khả năng thực tế.
1.3. Các lĩnh vực chuyên ngành
Điều 1 Dự thảo bao trùm cả những hoạt động thuộc lĩnh vực đã được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác. Nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng các tiếp cận này hoàn toàn khác với cách tiếp cận của Nghị định 52/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định 85/2021/NĐ-CP về thương mại điện tử, trong đó đã loại trừ các hoạt động đã được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm; dịch vụ phát hành, phân phối sản phẩm nội dung thông tin số; phát thanh, truyền hình.
Dù điều 4 Dự thảo quy định về áp dụng Luật Thương mại điện tử có xử lý quy định theo hướng các luật (trước hoặc sau luật thương mại điện tử) phải quy định rõ không áp dụng quy định tại Luật Thương mại điện tử. Tuy nhiên, cần thấy rằng Luật Thương mại điện tử được xây dựng trên nền của Nghị định về thương mại điện tử, trong đó đã cho phép loại trừ (tự động) một số ngành do pháp luật chuyên ngành (bao gồm văn bản cấp nghị định) đã quy định. Các văn bản chuyên ngành đã được xây dựng xoay quanh tư duy lập pháp như vậy.
Cách thiết kế tại Dự thảo sẽ đảo lộn cách thiết kế này. Điều này sẽ dẫn đến chồng lấn giữa cơ chế quản lý giữa các bộ, ngành. Các quy định về cấp phép, điều kiện kinh doanh do văn bản pháp luật chuyên ngành quy định vốn đã rất chặt chẽ với nhiều điều kiện đi kèm. Hơn nữa, việc sửa đổi luật chuyên ngành hoặc nâng cấp nghị định thành luật chuyên ngành sẽ mất nhiều thời gian và không thể có hiệu lực đồng thời với Luật này. Việc yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục đăng ký, cấp phép lại sẽ dẫn đến rủi ro gián đoạn hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến người tiêu dùng, đồng thời trùng lặp không cần thiết về biện pháp quản lý.
Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét giữ lại điều khoản về các trường hợp loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật này (tương tự như quy định tại Nghị định 85) bao gồm các hoạt động hiện đang được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm; dịch vụ phát hành, phân phối sản phẩm nội dung thông tin số; phát thanh, truyền hình, và các nền tảng điện tử, mạng xã hội hoạt động hoạt động không vì mục đích kinh doanh hoặc không thu phí.
- Đảm bảo khả năng gia nhập thị trường và tính cạnh tranh của thị trường thương mại điện tử
Thị trường thương mại điện tử là thị trường đa diện với sự tham gia của rất nhiều chủ thể: người bán – nền tảng – người tiêu dùng – doanh nghiệp vận chuyển – doanh nghiệp thanh toán… Bên cạnh đó, hiệu ứng mạng khi giá trị ngày càng tăng theo số lượng người dùng đã cho phép các nền tảng lớn càng có quyền lực trên thị trường. Các yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng khả năng cạnh tranh trên thị trường thương mại điện tử dễ tổn hại hơn. Do vậy, điều cần thiết là quy định tại Dự thảo cần đảm bảo khả năng gia nhập thị trường của những người chơi mới, những hình thức hoạt động đa dạng khác. Việc này sẽ đảm bảo thị trường liên tục có sự cạnh tranh, và đến cuối cùng, sẽ bảo vệ và thúc đẩy quyền và lợi ích cho người tiêu dùng.
2.1. Thủ tục gia nhập thị trường với startup
Nhiều ý kiến phản ánh với VCCI rằng Điều 13 Dự thảo yêu cầu tất cả các nền tảng thương mại điện tử, bất kể quy mô và hình thức hoạt động, đều phải thực hiện thủ tục cấp phép trước khi hoạt động. Phương thức quản lý đánh đồng như vậy là chưa hợp lý với các nền tảng thương mại điện tử trung gian nhỏ, khiến các startup bị quản lý quá chặt. Các mô hình mới chỉ đang trong quá trình thử nghiệm phản ứng của thị trường và thu hút người dùng, chưa rõ về khả năng thành công đã phải đáp ứng quy định cấp phép rất nghiêm ngặt. Việc này tạo ra rào cản lớn với các mô hình kinh doanh mới, các startup. Lĩnh vực mạng xã hội, một lĩnh vực có tính chất và tác động tương tự, pháp luật cũng cho phép quản lý lỏng với các mạng xã hội nhỏ, cụ thể mạng xã hội có lượt truy cập thường xuyên thấp chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo, nếu đủ lớn mới cần thực hiện thủ tục cấp phép, theo Điều 24.6.a Nghị định 147/2024/NĐ-CP.
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu cơ chế quản lý theo hướng đơn giản hóa thủ tục với các startup. Cụ thể, cho phép các nền tảng trung gian thương mại điện tử nhỏ chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo khi bắt đầu hoạt động, và chỉ phải thực hiện thủ tục cấp phép khi đặt ngưỡng nhất định.
2.2. Thủ tục gia nhập thị trường với người bán
Nhiều ý kiến phản ánh với VCCI rằng Điều 20.1 Dự thảo yêu cầu nền tảng thương mại điện tử trung gian phải xác thực điện tử danh tính của người bán, áp dụng kể cả người bán mới gia nhập thị trường. Người bán mới gia nhập thị trường chưa thực sự có tác động lớn khi chưa có nhiều doanh thu. Đồng thời, họ cần thích nghi với thị trường mới nên yêu cầu ngay các thủ tục hành chính là chưa phù hợp. Hơn nữa, định danh điện tử không phải là cách duy nhất để xác định người bán, mà có thể thông qua số điện thoại đăng ký, tài khoản ngân hàng nhận tiền… Do vậy, để tạo thuận lợi cho người bán mới gia nhập thị trường, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng chỉ yêu cầu xác thực điện tử danh tính của người bán khi người bán đạt đến ngưỡng thu nhập chịu thuế.
2.3. Sự gia nhập của các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị thương mại điện tử
Chúng tôi nhận được phản ánh rằng Điều 16.6.d Dự thảo quy định trách nhiệm của nền tảng thương mại điện tử trung gian lớn trong việc không áp đặt người bán, người mua phải sử dụng dịch vụ thanh toán hoặc logistics của một nhà cung cấp mà không có lý chính đáng. Quy định được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lựa chọn của các bên khi tham gia các nền tảng THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ trung gian lớn, qua đó tránh áp đặt độc quyền dịch vụ phụ trợ. Tuy nhiên, quy định dường như chưa bao quát đủ và đảm bảo quyền lựa chọn của người tiêu dùng. Ví dụ, nền tảng có thể cho phép 02 nhà cung cấp dịch vụ tham gia, nhưng về bản chất vẫn giới hạn quyền lợi của người bán và người mua.
Ở chiều ngược lại, cũng cần ghi nhận rằng các nền tảng thương mại điện tử cần duy trì đồng bộ các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ phụ trợ để đảm bảo chất lượng dịch vụ cho người tiêu dùng. Vì vậy, để cân bằng quyền lợi và nhu cầu giữa các chủ thể, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi theo hướng chủ quản nền tảng thương mại điện tử trung gian lớn có trách nhiệm thiết lập điều kiện tham gia với các nhà cung cấp dịch vụ logistics, thanh toán. Các điều kiện này phải đảm bảo không nhằm hạn chế sự tham gia của nhà cung cấp hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà cung cấp gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Không được cản trở, hạn chế người dùng thực hiện quyền lựa chọn trong các nhà cung cấp đáp ứng điều kiện.
- Nghĩa vụ thành lập pháp nhân và chỉ định đại diện ủy quyền
Nhiều ý kiến từ các tập đoàn phản ánh vấn đề Điều 27 Dự thảo yêu cầu nền tảng thương mại điện tử nước ngoài phải thành lập pháp nhân hoặc chỉ định pháp nhân tại Việt Nam theo ủy quyền. Tuy nhiên, các nền tảng thương mại điện tử chỉ đăng tải thông tin hàng hóa, sản phẩm có mức độ rủi ro thấp do quá trình tìm hiểu, hoàn tất giao dịch thực hiện theo yêu cầu giữa người mua và người bán. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng các nền tảng thương mại điện tử nước ngoài phải thành lập pháp nhân hoặc chỉ định pháp nhân khi có chức năng đặt hàng trực tuyến hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình giao dịch.
Với các nền tảng thương mại điện tử nước ngoài còn lại, chỉ yêu cầu chỉ định đầu mối liên hệ để đảm bảo việc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Điều 29 Dự thảo quy định trách nhiệm của pháp nhân được ủy quyền. Tuy nhiên, quy định về cho phép pháp nhân được ủy quyền được truy cập vào nền tảng để giám sát và gỡ bỏ là chưa phù hợp. Việc này yêu cầu nền tảng phải nhượng quyền kiểm soát cho một bên thứ ba, từ đó gây rủi ro cho nền tảng về bảo mật và kiểm soát dữ liệu. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.
- Hoạt động livestream
Điều 3.11 Dự thảo định nghĩa livestream bán hàng là hoạt động livestream nhằm giới thiệu, quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ. Dự thảo sử dụng khái niệm này để xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong hoạt động livestream. Mục tiêu của quy định nhằm đảm bảo thông tin. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cho rằng định nghĩa tại Dự thảo dường như quá rộng khi bao hàm cả hoạt động giới thiệu, quảng cáo. Việc cung cấp thông tin sản phẩm chỉ là bước đầu trong quá trình bán hàng, từ đó, người tiêu dùng có thể nghiên cứu sản phẩm, yêu cầu thêm thông tin hoặc so sánh với các sản phẩm khác… trước khi đưa ra quyết định mua hàng. Pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và bảo vệ người tiêu dùng đã có nhiều quy định về trách nhiệm của các bên để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Hơn nữa, định nghĩa rộng như trên cũng bao gồm nhiều trường hợp không cần thiết điều chỉnh, như một nhãn hiệu livestream quá trình ra mắt sản phẩm mới (có tính cung cấp thông tin – nhưng chưa kết hợp bán hàng); hoặc một người livestream quá trình chơi một game mới ra mắt trên thị trường (giới thiệu về sản phẩm game – nhưng không cung cấp dịch vụ)…
Việc kiểm soát trách nhiệm của người livestream, người bán, nền tảng là cần thiết, nhưng chỉ nên áp dụng đối với hoạt động livestream kết hợp bán hàng (tức có chức năng đặt hàng trực tuyến tích hợp trong phiên livestream). Hoạt động này có nguy cơ cao do quyết định mua hàng thường đưa ra ngay trong phiên livestream.
Vì vậy, để đảm bảo phạm vi điều chỉnh phù hợp, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi định nghĩa về hoạt động livestream bán hàng theo hướng là hoạt động livestream có tích hợp chức năng đặt hàng trực tuyến trong đó.
Về trách nhiệm của nền tảng, Điều 21.2 Dự thảo quy định nền tảng có trách nhiệm kiểm soát theo thời gian thực nội dung livestream bán hàng. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này là không khả thi trên thực tế do chưa tính đến những hạn chế của công nghệ. Các nền tảng không thể dự đoán mọi hành vi của người dùng trong thời gian thực. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng nền tảng có trách nhiệm xử lý vi phạm một cách kịp thời khi nhận được yêu cầu.
- Thời hạn lưu trữ
Rất nhiều doanh nghiệp lo lắng về việc Dự thảo bổ sung nhiều trách nhiệm của doanh nghiệp liên quan đến lưu trữ thông tin, cụ thể:
- Trách nhiệm của nền tảng bán hàng trực tiếp: Lưu trữ ít nhất 03 năm kể từ thời điểm giao kết hợp đồng với dữ liệu về nội dung của hợp đồng giao dịch trên nền tảng;
- Trách nhiệm của nền tảng đa dịch vụ: lưu trữ dữ liệu trao đổi giữa nền tảng đa dịch vụ với nền tảng tích hợp trong ít nhất 03 năm;
- Trách nhiệm của nền tảng thương mại điện tử: lưu trữ video livestream trong ít nhất 01 năm;
- Trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ tiếp thị liên kết: lưu trữ thông tin dịch vụ tiếp thị liên kết trong vòng 03 năm;
Mục đích của quy định này được suy đoán là nhằm phục vụ giải quyết tranh chấp với thời hiệu lưu trữ theo pháp luật về tố tụng. Yêu cầu nền tảng lưu trữ dữ liệu là phù hợp và hỗ trợ người tiêu dùng giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định về thời hạn lưu trữ chưa phù hợp và tạo ra gánh nặng chi phí rất lớn cho doanh nghiệp. Đặc thù của giao dịch thương mại điện tử là giá trị không quá cao (vài trăm đến triệu đồng) và thời gian diễn ra nhanh chóng (như một cuốc xe chỉ diễn ra trong không quá 1 tiếng, hay việc đặt hàng trực tuyến chỉ mất 2-3 ngày để nhận hàng…). Liệu người tiêu dùng có cần đến 03 năm để khiếu nại cho một đơn hàng giá chỉ một trăm nghìn đồng? Để so sánh, với thương mại truyền thống (như siêu thị), pháp luật cũng không có yêu cầu doanh nghiệp phải lưu trữ với thời gian dài như vậy.
Trong khi, số lượng giao dịch thương mại điện tử khổng lồ sẽ tạo ra gánh nặng chi phí lưu trữ cho doanh nghiệp. Việc này có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí lớn để lưu trữ, trong khi người tiêu dùng lại không có nhu cầu truy cập dữ liệu đó, đặc biệt khi thời gian càng cách xa ngày giao dịch.
Để cân bằng giữa quyền lợi người tiêu dùng và chi phí tuân thủ, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi như sau: (1) Nền tảng có trách nhiệm lưu trữ dữ liệu trong một khoảng thời gian nhất định; (2) Nền tảng cho phép người dùng tải về dữ liệu để lưu trữ (nếu có nhu cầu) và được phép xóa sau khoảng thời gian đó.
Trên đây là một số ý kiến mà Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận được về Dự thảo Luật Thương mại điện tử. Chúng tôi xin chuyển tới Quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.