VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
VCCI_Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở
Kính gửi: Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trả lời Công văn số 739/MTTW-BTT của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến góp ý đối với Dự thảo như sau:
- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 1)
Về phản biện xã hội (Khoản 11, 12, 13 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 32, khoản 3 Điều 33, khoản 2, khoản 3 Điều 36 Luật)
Theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) tại khoản 3 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 4 Luật, “khi phối hợp và thống nhất hành động, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Hiến pháp, pháp luật, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc và điều lệ của mỗi tổ chức/đồng thời vẫn giữ tính độc lập tương đối của tổ chức mình”. Theo quy định này, các tổ chức thành viên của MTTQ hoạt động tương đối độc lập so với MTTQ. Đây là quan điểm tiếp cận hoàn toàn hợp lý, đảm bảo tính tự chủ và phù hợp với vai trò, chức năng nhiệm vụ của các thành viên MTTQ.
Tuy vậy, để đảm bảo nguyên tắc này được thực hiện một cách xuyên suốt, nhất quán trong Dự thảo, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét quy định sau:
Về phản biện xã hội, Dự thảo đang quy định hoạt động này là do “Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước” và “Ủy ban MTTQ Việt Nam phân công các tổ chức chính trị – xã hội phản biện xã hội đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và trách nhiệm của tổ chức mình”.
Quy định trên dường như chưa thật sự thống nhất và phù hợp với nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của MTTQ quy định tại khoản 3 Điều 1 Dự thảo, cụ thể:
– Các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ là thành viên của MTTQ nhưng chưa được đánh giá đúng vai trò phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản của nhà nước. Các quy định trên mới chỉ dừng ở việc nêu Ủy ban MTTQ các cấp, tổ chức chính trị – xã hội mà chưa đề cập đến các thành viên khác của MTTQ như các hội do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ, được tham gia vào hoạt động phản biện xã hội;
– Việc phản biện của các tổ chức là thành viên của MTTQ được thực hiện theo cơ chế “phân công” có thể sẽ khiến cho quy trình và việc phản biện trở nên chưa linh hoạt và chưa thể hiện tính chủ động, nhanh nhạy của các tổ chức thành viên của MTTQ. Trong bối cảnh, quy trình soạn thảo chính sách, văn bản pháp luật nhanh chóng như hiện nay, vai trò phản biện xã hội của MTTQ càng cần phải phát huy, để thể hiện tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng chính sách. Nếu việc phản biện này phải thực hiện theo quy trình phân công, có thể sẽ không theo kịp quy trình soạn thảo văn bản, đồng thời sẽ tạo gánh nặng và áp lực công việc từ phía MTTQ khi phải phân loại, điều phối và phân công công việc.
VCCI là hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, theo điều lệ, VCCI có vai trò, chức năng, nhiệm vụ phản biện chính sách, văn bản pháp luật. Vai trò phản biện của VCCI cũng đã được ghi nhận trong Nghị quyết 43/NQ-TW của Bộ Chính trị về doanh nhân, hay là các Nghị quyết của Chính phủ liên quan đến cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh (ví dụ như: Nghị quyết 01/NQ-CP). Về mặt thực tế, VCCI đã chủ động tham gia các hoạt động phản biện chính sách đối với các cơ quan soạn thảo và đã kịp thời phản ánh được tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp. Việc phản biện xã hội của các hội như VCCI thông qua cơ chế phân công có thể làm giảm đi tính độc lập và vai trò phản biện của tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp.
– Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 là 8% và mức tăng trưởng 2 con số từ năm tiếp theo, các văn bản pháp luật về kinh doanh rất quan trọng. Do đó, trong hoạt động phản biện cần có sự chủ động và quan tâm đến các văn bản, chính sách về kinh doanh.
Từ các phân tích trên, đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh lại quy định về phản biện quy định tại khoản 11, khoản 12, khoản 13 Điều 1 Dự thảo như sau:
– Phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là việc Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp, thành viên của MTTQ nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước. Tức là thêm cụm từ “thành viên của MTTQ” vào quy định tại khoản 11 Điều 1 Dự thảo;
– Các tổ chức thành viên của MTTQ chủ động tham gia phản biện xã hội đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 (sửa đổi) có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, các đối tượng mà mình đại diện, quyền và trách nhiệm của tổ chức mình.
- Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn (Điều 2)
2.1 Về giám sát của công đoàn (khoản 6 Điều 2 Dự thảo sửa đổi, bổ sung điểm b, điểm c khoản 5 Điều 16)
Dự thảo sửa đổi quy định tại điểm c khoản 5 Điều 16 về giám sát của công đoàn từ “thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân tại nơi làm việc ở cơ quan, đơn vị doanh nghiệp nhà nước” thành “thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân tại nơi làm việc”.
Quy định tại Dự thảo có thể đưa đến cách hiểu các doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng phải có Ban Thanh tra nhân dân. Điều này là chưa phù hợp với Luật Thực hiện dân chủ ở cơ cở. Theo đó, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định Ban Thanh tra nhân dân thành lập ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện các quy định chung về thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Để đảm bảo thống nhất với quy định tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, đề nghị cơ quan giữa nguyên quy định tại khoản 3 Điều 33 “thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân tại nơi làm việc ở cơ quan đơn vị doanh nghiệp nhà nước”.
2.2. Về bảo đảm cho cán bộ công đoàn
Khoản 2 Điều 28 Luật Công đoàn quy định: “Người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, sa thải, buộc thôi việc hoặc chuyển làm công việc khác đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có ý kiến thỏa thuận bằng văn bản của công đoàn cấp trên trực tiếp. Trường hợp không thỏa thuận được, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày kể từ ngày báo cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền biết, người sử dụng lao động có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.”.
Quy định này là chưa phù hợp với pháp luật về lao động. Điều 36 Bộ luật lao động quy định về các trường hợp người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải có sự đồng ý của bên thứ ba hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có nghĩa khi cán bộ công đoàn không chuyên trách đồng thời là người lao động thuộc các trường hợp quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động, người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động sau khi thực hiện thời hạn thông báo trước cho người lao động. Quyền “tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động” cũng được ghi nhận tại Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020.
Để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định bỏ Khoản 2 Điều 28 Luật Công đoàn.
Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.