VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất năm 2025
VCCI_Góp ý Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi)
Kính gửi: Tòa án nhân dân tối cao
Trả lời Công văn số 20/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
- “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” (khoản 1 Điều 5 Dự thảo)
Đây là một trong những vấn đề doanh nghiệp quan tâm nhất khi tiếp cận Luật Phá sản. So với Luật Phá sản 2014, Dự thảo đã có sửa đổi quan trọng đối với khái niệm “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”, theo đó đưa ra hai phương án:
– Phương án 1: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán, trừ trường hợp sự kiện bất khả nắng hoặc trở ngại khách quan;
– Phương án 2: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán
Về cơ bản, cả hai phương án này là giống nhau, chỉ khác nhau ở thời hạn doanh nghiệp không thanh toán khoản nợ đến hạn: 03 tháng hoặc 06 tháng.
Xét bản chất, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản. Việc Dự thảo đặt ra quy định doanh nghiệp “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” chưa phản ánh được tính trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thực tế, có nhiều doanh nghiệp có đầy đủ khả năng thanh toán nhưng do nhiều nguyên nhân không chịu thanh toán hoặc không thể thanh toán tại thời điểm bị đòi nợ (do chưa thu hồi được nợ, …). Căn cứ này có khả năng trở thành “công cụ” để cho các đối tác “đòi nợ” lẫn nhau. Điều này có thể dẫn tới hậu quả là doanh nghiệp bị đòi nợ bị thiệt hại về uy tín và thiệt hại trên thực tế.
Vì vậy, đề nghị nghiên cứu quy định về “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có thể nghiên cứu xem xét trong tình hình thực tế của doanh nghiệp có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản. Trong trường hợp, Ban soạn thảo có lý do để giữ lại phương thức quy định như đề xuất tại Dự thảo, để có tính định lượng, dễ áp dụng, cân nhắc lựa chọn phương án 1.
- Doanh nghiêp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán (khoản 2 Điều 5)
Khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định khái niệm mới “doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã nếu thực hiện việc thanh toán khoản nợ đến hạn trong vòng 06 tháng tiếp theo hoặc khoản nợ đến hạn nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Đây là căn cứ để các chủ thể đề nghị thực hiện thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này và khái niệm “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” có những nét tương đồng và khó có thể phân biệt rõ ràng. Nếu nhìn dưới góc độ của chủ nợ, các khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn, doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán (trong trường hợp doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp cũng sẽ không thanh toán vì nếu thanh toán thì đặt doanh nghiệp vào tình trạng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh) sẽ không biết được trường hợp nào “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phá sản hay thuộc trường hợp “nguy cơ mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phục hồi.
Mặt khác, khái niệm “ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh” cũng chưa thực sự rõ để có thể xác định được tình trạng của doanh nghiệp.
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại vấn đề trên để quy định về khái niệm này rõ ràng và có khả năng phân biệt với khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
- Quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản
- Điều kiện hành nghề Quản tài viên (Điều 15)
So với quy định hiện hành, Dự thảo bổ sung thêm điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên, theo đó yêu cầu điều kiện được hành nghề Quản tài viên phải “tham gia bồi dưỡng kiến thức bắt buộc”, “người được đào tạo nghề Quản tài viên, có chứng chỉ tốt nghiệp đào tạo nghề Quản tài viên và đã được tập sự hành nghề Quản tài viên tại Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản thì được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên”.
Đề nghị Ban soạn thảo đánh giá tính khả thi và hợp lý của việc người được đào tạo nghề Quản tài viên phải được tập sự hành nghề Quản tài viên tại Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản. Bởi vì, số lượng Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản rất ít, và phân theo khu vực, trong khi Quản tài viên được đào tạo trong phạm vi cả nước, liệu Tòa án nhân dân chuyên biệt có tiếp nhận được số lượng người tập sự hành nghề Quản tài viên hay không? Đề nghị đánh giá tác động quy định này để đảm bảo tính hiệu quả và khả thi.
- Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Đây là quy định giữ nguyên như quy định hiện hành, tức là doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ được tổ chức dưới hai loại hình là công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Lý do, suy đoán là vì đây là ngành nghề đề cao vai trò và trách nhiệm của cá nhân thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản vì vậy các loại hình doanh nghiệp này nâng cao tính trách nhiệm cá nhân thực hiện.
Trong hệ thống pháp luật về kinh doanh, có một số ngành nghề cũng có tính chất đề cao trách nhiệm của cá nhân khi thực hiện như dịch vụ kế toán, kiểm toán, luật sư, tuy nhiên đối với các ngành nghề này doanh nghiệp có thể được thành lập ở loại hình công ty trách nhiêm hữu hạn, trong đó ràng buộc điều kiện đối với các thành viên góp vốn.
Vì vậy, đề nghị xem xét, cân nhắc mở rộng loại hình được phép tổ chức thành lập và hoạt động của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay vì chỉ được thành lập theo hai loại hình theo luật hiện hành.
- Quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 19)
Điểm g khoản 1 Điều 19 Dự thảo quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản “được chỉ định chuyên gia về Luật hoặc kinh doanh trong Danh sách các chuyên gia về tài chính, tái cấu trúc và quản lý tài sản của văn phòng, công ty chuyên về lĩnh vực này, của Bộ Kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng kiểm toán nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước làm cố vấn với sự cho phép của Tòa án”.
Quy định này cần xem xét ở các điểm sau: Hiện tại và tương lai có Danh sách này không? Căn cứ đâu để các các cơ quan này lập danh sách? Đề nghị giải trình thêm về vấn đề này để đảm bảo tính minh bạch và hợp lý của chính sách.
- Một số quy định chưa đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ
- Xử lý tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản (Điều 39)
Điều 39 Dự thảo quy định, trường hợp số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản đã nộp chưa đủ cho chi phí phục hồi, phá sản thực tế thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, phá sản phải nộp thêm phần tiền còn thiếu theo thông báo của Tòa án. Trường hợp số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản đã nộp nhiều hơn chi phí phục hồi, phá sản thực tế thì người nộp được trả lại phần tiền còn thừa theo quyết định của Tòa án.
Yêu cầu người nộp đơn phải nộp thêm phần tiền còn thiếu sau khi tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản là chưa hợp lý, chưa đảm bảo quyền lợi cho người nộp đơn là chủ nợ. Bởi vì, theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Dự thảo, Tòa án sẽ giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản doanh nghiệp để bảo đảm chi phí phục hồi, phá sản. Như vậy, chi phí phục hồi, phá sản sẽ lấy nguồn từ tài sản của doanh nghiệp. Xét bản chất, số tiền tạm ứng chi phí phá sản, phục hồi người nộp đơn đóng chỉ để cho các hoạt động ban đầu cho đến khi doanh nghiệp bán tài sản để có chi phí thực hiện trình tự, thủ tục sau đó. Việc yêu cầu cầu chủ nợ nộp đơn phải bổ sung thêm tạm ứng chi phí sẽ khiến cho chủ nợ không có động lực gửi đơn đề nghị phá sản vì phải mất thêm số tiền trong khi số nợ lại chưa đòi được.
Đề nghị cân nhắc bỏ quy định người nộp đơn phải nộp thêm số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản quy định tại khoản 1 Điều 39 Dự thảo.
- Xử lý khoản nợ có bảo đảm (Điều 42)
Điểm a khoản 1 Điều 42 Luật Phá sản quy định, khoản nợ có bảo đảm sẽ được xử lý trừ trường hợp “tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ”. Như vậy, tài sản bảo đảm sẽ phải chờ đến khi Hội nghị chủ nợ có quyết định sử dụng tài sản này để phục hồi kinh doanh hay không. Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:
Theo quy định tại Dự thảo, để tổ chức Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi kinh doanh phải trải qua rất nhiều giai đoạn (tập hợp danh sách chủ nợ, con nợ; kiểm kê tài sản; Hội nghị chủ nợ lần 1, lập phương án phục hồi kinh doanh). Trường hợp phương án phục hồi kinh doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì “phải được chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản đó đồng ý” (khoản 3 Điều 88 Dự thảo). Nếu chủ nợ có bảo đảm không đồng ý thì tài sản đảm bảo sẽ được xử lý như thế nào? Dự thảo chỉ quy định việc xử lý tài sản đảm bảo cho “trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy” mà chưa quy định việc xử lý cho trường hợp trên.
Nếu trong trường hợp này, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý tương tự như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 42 Luật Phá sản, có nghĩa quy định xử lý tài sản bảo đảm sẽ được tách riêng so với việc giải quyết các khoản nợ khác của vụ việc phá sản. Tuy nhiên, quy định tại Luật Phá sản khiến cho quy trình này trở nên kéo dài và ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Bởi vì, phần lớn trường hợp, chủ nợ có tài sản bảo đảm sẽ không đồng ý cho sử dụng tài sản có bảo đảm vào phương án phục phồi kinh doanh – một phương án mà quyền quyết định thuộc về chủ nợ đại diện cho 65% tổng số nợ không có bảo đảm, và rủi ro rất lớn là họ sẽ mất tài sản bảo đảm nếu doanh nghiệp không thể phục hồi kinh doanh. Vì tính chất này, Dự thảo quy định theo hướng, bắt các chủ nợ này phải “chờ đợi” một khoảng thời gian rất dài mới được quyền xử lý tài sản bảo đảm dường như chưa thật hợp lý.
Đề nghị bổ sung quy định về trường hợp tách khoản nợ có tài sản bảo đảm để xử lý ngay và việc thi hành quyết định xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp đã tách khoản nợ, đồng thời bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 42 Luật Phá sản.
- Một số quy định khiến cho quy trình thủ tục phá sản có thể kéo dài
Một trong những điểm khiến cho doanh nghiệp không mặn mà với việc thực hiện quy trình thủ tục phá sản đó là thủ tục kéo dài, phức tạp, khiến cho doanh nghiệp, hợp tác xã “muốn chết cũng không được”. So với trước đây, Luật Phá sản 2014 đã khắc phục đáng kể về quy trình thủ tục để quy định có tính khả thi hơn. Tiếp nối tinh thần của Luật 2014, Dự thảo cũng thiết kế các quy định theo hướng rõ ràng, dễ thực hiện và rút ngắn. Tuy vậy, một số quy định của Dự thảo có thể khiến cho thủ tục trở nên kéo dài, đề nghị cân nhắc các vấn đề sau:
- Hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản
Chương II Dự thảo quy định về hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản. Đây được xem là một trong những thủ tục bắt buộc trong quy trình thủ tục phá sản. Việc hòa giải là sự thương lượng giữa chủ nợ và con nợ về việc giải quyết các khoản nợ đảm bảo quyền lợi của hai bên. Xuất phát từ tính chất này, hoạt động hòa giải nên thiết kế theo hướng tự nguyện, xuất phát từ hai phía, thay vì quy định theo hướng bắt buộc như Dự thảo “Quản tài viên có trách nhiệm tiến hành hòa giải về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; tranh chấp, khiếu nại về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã” (Điều 64).
Mặt khác, quy định tại Chương II Dự thảo cũng có thể khiến cho quy trình thủ tục phá sản kéo dài. Theo quy định tại Điều 67 Dự thảo, kết quả hòa giải phải được sự đồng ý của hội nghị chủ nợ. Như vậy, kể cả việc hòa giải thành thì cũng phải tổ chức hội nghị chủ nợ theo trình tự thủ tục của Dự thảo để có được sự đồng ý. Nếu hội nghị chủ nợ không đồng ý thì việc hòa giải này cũng không có ý nghĩa. Thủ tục lại quay trở lại theo trình tự, thủ tục xử lý phá sản.
Để đảm bảo quy trình thủ tục phá sản không bị kéo dài, đề nghị quy định hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản theo hướng việc thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của chủ nợ và con nợ.
- Tạm dừng thanh toán khoản nợ sau khi có quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 53)
Khoản 4 Điều 53 Dự thảo quy định, trước khi Tòa án cho phép thanh toán các khoản nợ phải lấy ý kiến của Hội nghị chủ nợ hoặc Ban đại diện chủ nợ. Quy định này khiến cho quy trình thực hiện trở nên kéo dài, vì lại phải tổ chức Hội nghị chủ nợ để xin ý kiến, trong khi trước đó Hội nghị chủ nợ đã thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, trong đó có các nội dung thanh toán các khoản nợ. Để đảm bảo quy trình trở nên nhanh gọn, đề nghị sửa quy định tại khoản 1 Điều 53 theo hướng, trong Hội nghị chủ nợ cần xác định các khoản nợ sẽ phải thanh toán và các khoản nợ chưa thanh toán, trong đó có xem xét các khoản nợ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 và đề nghị bỏ khoản 4 Điều 53 Dự thảo.
c.Gửi giấy thông báo nợ (Điều 115)
Khoản 1 Điều 115 Dự thảo quy định về thời hạn gửi giấy thông báo nợ, nhưng “trường hợp cần thiết” thì Tòa án có thể gia hạn thời hạn gửi giấy thông báo nợ. Trường hợp “có trở ngại khách quan” thì không tính vào thời hạn này. Đây là những khái niệm chưa đủ rõ ràng và khiến cho quy trình xử lý bị kéo dài. Đề nghị bỏ quy định về có “trở ngại khách quan” không tính vào thời hạn gửi giấy thông báo nợ và quy định rõ hơn về trường hợp gia hạn.
- Thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã
So với quy định hiện hành, Dự thảo đã bổ sung quy định về phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là chế định mới, hướng đến việc bảo vệ doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán có cơ hội tái cơ cấu, duy trì hoạt động thay vì phải phá sản. Việc bổ sung thủ tục này là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để thủ tục này đạt được mục tiêu đặt ra, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:
- Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 68)
Khoản 2 Điều 68 Dự thảo quy định “Chủ nợ có khoản nợ sẽ đến hạn trong vòng 06 tháng hoặc khoản nợ đã đến hạn nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi” là người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi.
Đề nghị xem xét lại chủ thể này là người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi ở các điểm sau:
– Chủ nợ, trong nhiều trường hợp sẽ không biết được doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán hay không. Việc chủ nợ có khoản nợ sẽ đến hạn, chưa thực hiện đòi nợ, chưa biết doanh nghiệp có khả năng trả hay không, vì vậy rất khó để đánh giá doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán hay không. Quy định này có khả năng sẽ đẩy doanh nghiệp vào những tình huống phải thực hiện phục hồi theo quy định của Dự thảo này, vừa mất thời gian, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa mất uy tín;
– Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 75 Dự thảo quy định, Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi trong trường hợp “chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi nhưng không được sự đồng ý của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Như vậy, việc chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi được chấp thuận hay không phụ thuộc vào doanh nghiệp bị yêu cầu phục hồi. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp sẽ không đồng ý, vì vậy việc chủ nợ nộp đơn là không mấy ý nghĩa, chỉ khiến cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng rắc rối, khó khăn.
Đề nghị bỏ quy định tại khoản 2 Điều 68 Dự thảo.
- Thương lượng trước khi mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 77)
Khoản 1 Điều 77 Dự thảo quy định “doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền đề nghị thương lượng với chủ nợ trước khi mở thủ tục phục hồi”. Không rõ, doanh nghiệp, hợp tác xã thương lượng vấn đề gì với chủ nợ?
Nếu trong trường hợp chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền không đồng ý và đơn này sẽ không được thủ lý.
Nếu trường hợp doanh nghiệp tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì thủ tục này là phương thức để bảo vệ doanh nghiệp trước việc đòi nợ của con nợ và có cơ hội để tái cấu trúc lại doanh nghiệp.
Để đảm bảo tính rõ ràng của chính sách, đề nghị quy định rõ hơn về vấn đề thương lượng trước khi mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 78)
Khoản 2 Điều 78 Dự thảo quy định người được quy định tại điểm c đến điểm đ khoản 1 Điều 68[1] nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì Tòa án thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã được yêu cầu mở thủ tục phục hồi biết về yêu cầu phục hồi. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi ý kiến về yêu cầu phục hồi cho Tòa án. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không đồng ý với yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoặc hết thời hạn nêu trên mà không gửi ý kiến thì Tòa án trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, 65% tổng số vốn góp của tất cả các thành viên dự họp trở lên có quyền thông qua nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên, 75% tổng số vốn góp của tất cả thành viên dự họp tán thành đối với nghị quyết, quyết định bán tài sản có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản trở lên. Cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu từ 65% vốn điều lệ trở lên.
Như vậy, khi thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì đủ điều kiện để thông qua nghị quyết, quyết định của hội đồng thành viên – cơ quan quyết định cao nhất của công ty TNHH hai thành viên. Do đó, khi nhóm thành viên có tỷ lệ sở hữu này yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì sẽ không có trường hợp “doanh nghiệp không đồng ý với yêu cầu mở thủ tục phục hồi”.
Quy định về tỷ lệ sở hữu số cổ phần phổ thông, tỷ lệ sở hữu tổng số vốn điều lệ quy định tại khoản 1 Điều 68 Dự thảo có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ liên quan đến các quy định của Luật Doanh nghiệp, vì vậy cần rà soát quy định này để:
– Đề nghị Ban soạn thảo Dự thảo Luật Doanh nghiệp bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định đề nghị mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp (hiện tại, mới chỉ quy định về yêu cầu mở thủ tục phá sản);
– Phân chia tỷ lệ sở hữu số cổ phần, vốn điều lệ để đảm bảo tính thống nhất về thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp như phân tích ở trên.
- Giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi (Điều 86)
Khoản 1 Điều 86 Dự thảo quy định, sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động:
- “Trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã” (điểm d).
Đây là hoạt động đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp, nếu không trả lương cho người lao động thì lấy người đâu làm việc và thực hiện phục hồi doanh nghiệp. Đề nghị bỏ quy định việc trả lương cho người lao động phải báo cáo Quản tài viên.
– “Thanh toán khoản nợ hoặc nhận thanh toán khoản nợ mà không phù hợp với phương án phục hồi” (điểm đ)
Sau thời điểm mở thủ tục phục hồi và trước thời điểm thông qua phương án phục hồi doanh nghiệp, làm sao nhận biết được khoản nợ hoặc nhận thanh toán khoản nợ mà không phù hợp với phương án phục hồi? Đề nghị quy định rõ vấn đề này.
- Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 87)
Khoản 4 Điều 87 Dự thảo quy định “trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, Công đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên nơi doanh nghiệp, hợp tác xã không có công đoàn cơ sở nêu ý kiến về phương án phục hồi”. Đề nghị bỏ quy định này, bởi vì các cơ quan được lấy ý kiến không có cơ sở đâu để cho ý kiến đối với phương án phục hồi và cũng cần đánh giá đến tính khả thi về năng lực, tính phù hợp của các chủ thể được lấy ý kiến. Quy định này khiến cho quy trình phục hồi bị kéo dài.
- Nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 88)
Đây là nội dung rất quan trọng tác động đến tính hiệu quả của việc phục hồi hoạt động kinh doanh vì nội dung này cần thiết kế để đảm bảo phù hợp và khả thi.
Hội nghị chủ nợ sẽ xem xét và thông qua phương án phục hồi, vì vậy trong phương án phục hồi cần phải có nội dung liên quan đến giải quyết các khoản nợ của các chủ nợ để các chủ nợ có thể thấy triển vọng của mình được trả nợ khi thực hiện phương án phục hồi. Nội dung của Phương án phục hồi quy định tại Điều 88 dường như chưa thể hiện được nội dung này.
Điều 88 đang thiết kế theo hướng quá chi tiết về nội dung các biện pháp để phục hồi kinh doanh, trong khi hoạt động phục hồi, tái cơ cấu của doanh nghiệp tùy thuộc vào hiện trạng, tính chất của lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị nghiên cứu sửa đổi quy định về nội dung các biện pháp để phục hồi hoạt động doanh nghiệp theo hướng mang tính bao quát, thay vì liệt kê chi tiết như tại Dự thảo.
- Vai trò của Tòa án đối với việc phục hồi của doanh nghiệp
Dự thảo đang thiết kết phương án phục hồi của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào Hội nghị chủ nợ:
– Nếu hội nghị chủ nợ không triệu tập được, hoặc triệu tập không đáp ứng điều kiện theo quy định thì Tòa án sẽ đình chỉ thủ tục phục hồi (khoản 3 Điều 96)
– Trường hợp không đủ tỷ lệ biểu quyết mà xét thấy phương án phục hồi có tính khả thi thì người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc Quản tài viên có thể thuyết minh, giải trình bổ sung với chủ nợ không đồng ý về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Những chủ nợ đã biểu quyết không tán thành có thể biểu quyết lại (khoản 3 Điều 97)
Về mặt thực tế, chủ nợ sẽ không mấy mặn mà với hoạt động phục hồi của doanh nghiệp là con nợ vì vậy họ sẽ có xu hướng không muốn thông qua phương án phục hồi mà muốn thu hồi nợ ngay. Nếu phương án phục hồi phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của hội nghị chủ nợ, thì mục tiêu phục hồi doanh nghiệp của chế định này sẽ không thể thực hiện được. Một số nước trên thế giới, tòa án sẽ quyết định thông qua phương án phục hồi nếu phương án đó khả thi và hội nghị chủ nợ không thông qua, điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có cơ hội phục hồi và có động lực để mở thủ tục phục hồi.
Trong quy định tại Dự thảo, vai trò của tòa án khá mờ nhạt trong trường hợp này. Nếu để người quản lý doanh nghiệp, Quản tài viên thuyết phục thì sẽ không hiệu quả nếu chủ nợ không biểu quyết thông qua. Vì vậy, đề nghị thiết kế theo hướng, nếu phương án phục hồi có tính khả thi, Tòa án sẽ quyết định thông qua mặc dù hội nghị chủ nợ không thông qua.
- Đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 101)
Điểm c khoản 1 Điều 101 Dự thảo quy định “thẩm phán quyết định không công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh”. Đề nghị quy định rõ các trường hợp nào thẩm phán quyết định không công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
- Một số quy định chưa thực sự rõ ràng
Một trong những điểm vướng của việc thực thi Luật Phá sản là các quy định chưa đủ rõ ràng, cụ thể, tạo nhiều cách hiểu khác nhau. Mặc dù, các quy định tại Dự thảo có thể được hướng dẫn chi tiết tại các văn bản cấp dưới, tuy nhiên những quy định cần phải minh bạch, tạo cơ sở cho các văn bản hướng dẫn. Một số quy định tại Dự thảo chưa đảm bảo nguyên tắc này, cụ thể:
- Ban đại diện chủ nợ (Điều 23)
Khoản 2 Điều 23 Dự thảo quy định “Ban đại diện chủ nợ không quá 05 thành viên gồm các chủ khoản nợ có giá trị của doanh nghiệp, hợp tác xã. Các chủ nợ có thể đề xuất với Thẩm phản về việc đưa chủ khoản nợ có giá trị nhỏ, đại diện người sở hữu trái phiếu tham gia thành viên của Ban đại diện chủ nợ”. Quy định này đang chưa rõ các khái niệm “giá trị lớn”, “giá trị nhỏ”. Không rõ chủ khoản nợ có giá trị nhỏ được đưa vào là ngoài 05 thành viên các chủ nợ “có giá trị lớn” hay là giới hạn không quá 05 thành viên?
Đề nghị thiết kế lại quy định này để đảm bảo rõ ràng hơn.
- Cấp, tống đạt, thông báo văn bản trong vụ việc phá sản (Điều 32)
Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định “trường hợp vụ việc phá sản có số lượng lớn người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản cần phải cấp, tống đạt, thông báo văn bản thì Tòa án chỉ thực hiện việc thông báo tại Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao”. “số lượng lớn” là khái niệm đang chưa đủ rõ ràng để xác định trường hợp nào sẽ được cấp, tống đạt theo phương thức điện tử.
Khoản 7 Điều 32 Dự thảo quy định “trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã báo cáo, gửi dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và các tài liệu khác theo quy định của Luật này thì thực hiện bằng phương thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ ba được ủy quyền, bằng phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật”. Quy định này có thể đưa đến cách hiểu doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi đồng thời tất cả các phương thức liệt kê tại quy định này, điều này là chưa hợp lý. Trong bối cảnh cần thúc đẩy nhanh thủ tục phá sản, tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia, đề nghị quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã có thể lựa chọn một trong các phương thức quy định tại khoản 7 này để gửi báo cáo, phương án phục hồi đồng thời quy định rõ hơn “phương thức điện tử” là cách thức gửi như thế nào.
- Tạm dừng thanh toán khoản nợ sau khi có quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 53)
Theo quy định tại Điều 53 Dự thảo, kể từ thời điểm quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực thì tạm ngừng thanh toán tất cả các khoản nợ không phù hợp với nội dung phương án phục hồi trừ trường hợp “thanh toán khoản nợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà nếu không thanh toán thì doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động kinh doanh” (điểm a khoản 2 Điều 53).
Quy định này cần được xem lại ở các điểm sau:
– Làm thế nào để biết được doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động kinh doanh nếu không nhận được khoản thanh toán nợ này? Tòa án có xem xét và xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa nào thuộc trường hợp này không?
– Xét một cách công bằng, thì bất kì doanh nghiệp nào gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động nếu không được thanh toán các khoản nợ khi đến hạn đều nên được thanh toán, không nhất thiết là phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đề nghị quy định rõ hơn về việc cách thức nào để xác định doanh nghiệp sẽ được thanh toán trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 Dự thảo.
- Thủ tục phá sản rút gọn
Điều 140 Dự thảo đưa ra 2 phương án áp dụng thủ tục phá sản rút gọn
Phương án 1: (1) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ và có dưới 20 chủ nợ không có bảo đảm hoặc (2) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ và có tổng các khoản nợ phải thanh toán không lớn (dưới 10 tỷ đồng)
Phương án 2: (1) doanh nghiệp, hợp tác xã có dưới 10 chủ nợ không có bảo đảm và có dưới 200 người lao động hoặc (2) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ được xem xét áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn.
Đề nghị chọn phương án 2 vì phạm vi rộng áp dụng rộng hơn.
- Một số góp ý khác
- Thứ tự phân chia tài sản (Điều 43)
Khoản 4 Điều 43 Dự thảo quy định “đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều này thì chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ theo thứ tự quy định tại khoản 1 Điều này cho đến khi thanh toán xong tất cả các khoản nợ”. Quy định này là phù hợp với tinh chất chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản của mình đối với các chủ thể là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh. Tuy nhiên, cần cân nhắc lại quy định này theo hướng nhân văn, bởi vì pháp luật phá sản của nước ta chưa quy định cho việc phá sản cá nhân – bảo vệ tài sản của cá nhân kinh doanh, việc yêu cầu phải thanh toán tất cả các khoản nợ cho đến khi thanh toán xong, trong khi không tính đến các chủ thể đó có còn tài sản hay không và các tài sản hiện tại có đủ để sinh hoạt tối thiểu hay không là chưa thực sự hợp lý.
Đề nghị cân nhắc sửa đổi quy định thanh toán các khoản nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh theo hướng có tính đến giá trị tài sản mà họ đang sở hữu và việc thanh toán thì số tài sản còn lại đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu của họ sau khi thanh toán nợ.
- Tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 54)
Điều 55 Dự thảo quy định “sau khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phục hồi, quyết định mở thủ tục phá sản, thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có thể bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh”.
Quy định theo hướng cứng áp dụng cho mọi trường hợp mở thủ tục phục hồi, mở thủ tục phá sản dường như chưa thực sự hợp lý, bởi vì khi doanh nghiệp thực hiện phục hồi, có trường hợp cần giao dịch ở nước ngoài và ký kết ở nước ngoài, người đại diện theo pháp luật cần phải xuất cảnh để thực hiện giao dịch, nếu thực hiện tạm hoãn xuất cảnh đối với với người đại diện pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện phục hồi có hiệu quả.
Đề nghị điều chỉnh quy định theo hướng chỉ hoãn xuất cảnh trong trường có người đại diện pháp luật có hành vi tẩu tán tài sản hoặc có các hành vi ảnh hưởng đến phục hồi, phá sản.
c.Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 106)
Điểm c khoản 1 Điều 106 Dự thảo quy định, trường hợp người nộp đơn là doanh nghiệp, hợp tác xã thì đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải gửi kèm báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã trong 03 năm gần nhất được kiểm toán theo quy định của pháp luật. Yêu cầu phải có báo cáo tài chính được kiểm toán sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn hơn vì trường hợp doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tình trạng tài chính đã rất khó khăn, nhiều trường hợp không có tiền để thanh toán cho dịch vụ kiểm toán.
Đề nghị quy định theo hướng doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về tính trung thực của báo cáo.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi). Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
[1] Các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên thời gian liên tục ít nhất 06 tháng, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng trong trường hợp Điều lệ công ty quy định; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên; thành viên; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm dưới 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên trong trường hợp Điều lệ công ty quy định; thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã
Kính gửi: Tòa án nhân dân tối cao
Trả lời Công văn số 20/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
- “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” (khoản 1 Điều 5 Dự thảo)
Đây là một trong những vấn đề doanh nghiệp quan tâm nhất khi tiếp cận Luật Phá sản. So với Luật Phá sản 2014, Dự thảo đã có sửa đổi quan trọng đối với khái niệm “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán”, theo đó đưa ra hai phương án:
– Phương án 1: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán, trừ trường hợp sự kiện bất khả nắng hoặc trở ngại khách quan;
– Phương án 2: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán
Về cơ bản, cả hai phương án này là giống nhau, chỉ khác nhau ở thời hạn doanh nghiệp không thanh toán khoản nợ đến hạn: 03 tháng hoặc 06 tháng.
Xét bản chất, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản. Việc Dự thảo đặt ra quy định doanh nghiệp “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán” chưa phản ánh được tính trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thực tế, có nhiều doanh nghiệp có đầy đủ khả năng thanh toán nhưng do nhiều nguyên nhân không chịu thanh toán hoặc không thể thanh toán tại thời điểm bị đòi nợ (do chưa thu hồi được nợ, …). Căn cứ này có khả năng trở thành “công cụ” để cho các đối tác “đòi nợ” lẫn nhau. Điều này có thể dẫn tới hậu quả là doanh nghiệp bị đòi nợ bị thiệt hại về uy tín và thiệt hại trên thực tế.
Vì vậy, đề nghị nghiên cứu quy định về “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, có thể nghiên cứu xem xét trong tình hình thực tế của doanh nghiệp có tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản. Trong trường hợp, Ban soạn thảo có lý do để giữ lại phương thức quy định như đề xuất tại Dự thảo, để có tính định lượng, dễ áp dụng, cân nhắc lựa chọn phương án 1.
- Doanh nghiêp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán (khoản 2 Điều 5)
Khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định khái niệm mới “doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán” là doanh nghiệp, hợp tác xã nếu thực hiện việc thanh toán khoản nợ đến hạn trong vòng 06 tháng tiếp theo hoặc khoản nợ đến hạn nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Đây là căn cứ để các chủ thể đề nghị thực hiện thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này và khái niệm “doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán” có những nét tương đồng và khó có thể phân biệt rõ ràng. Nếu nhìn dưới góc độ của chủ nợ, các khoản nợ trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày đến hạn, doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán (trong trường hợp doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp cũng sẽ không thanh toán vì nếu thanh toán thì đặt doanh nghiệp vào tình trạng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh) sẽ không biết được trường hợp nào “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phá sản hay thuộc trường hợp “nguy cơ mất khả năng thanh toán” để yêu cầu phục hồi.
Mặt khác, khái niệm “ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh” cũng chưa thực sự rõ để có thể xác định được tình trạng của doanh nghiệp.
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại vấn đề trên để quy định về khái niệm này rõ ràng và có khả năng phân biệt với khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
- Quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản
- Điều kiện hành nghề Quản tài viên (Điều 15)
So với quy định hiện hành, Dự thảo bổ sung thêm điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên, theo đó yêu cầu điều kiện được hành nghề Quản tài viên phải “tham gia bồi dưỡng kiến thức bắt buộc”, “người được đào tạo nghề Quản tài viên, có chứng chỉ tốt nghiệp đào tạo nghề Quản tài viên và đã được tập sự hành nghề Quản tài viên tại Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản thì được cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên”.
Đề nghị Ban soạn thảo đánh giá tính khả thi và hợp lý của việc người được đào tạo nghề Quản tài viên phải được tập sự hành nghề Quản tài viên tại Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản. Bởi vì, số lượng Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản rất ít, và phân theo khu vực, trong khi Quản tài viên được đào tạo trong phạm vi cả nước, liệu Tòa án nhân dân chuyên biệt có tiếp nhận được số lượng người tập sự hành nghề Quản tài viên hay không? Đề nghị đánh giá tác động quy định này để đảm bảo tính hiệu quả và khả thi.
- Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Đây là quy định giữ nguyên như quy định hiện hành, tức là doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ được tổ chức dưới hai loại hình là công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Lý do, suy đoán là vì đây là ngành nghề đề cao vai trò và trách nhiệm của cá nhân thực hiện việc quản lý, thanh lý tài sản vì vậy các loại hình doanh nghiệp này nâng cao tính trách nhiệm cá nhân thực hiện.
Trong hệ thống pháp luật về kinh doanh, có một số ngành nghề cũng có tính chất đề cao trách nhiệm của cá nhân khi thực hiện như dịch vụ kế toán, kiểm toán, luật sư, tuy nhiên đối với các ngành nghề này doanh nghiệp có thể được thành lập ở loại hình công ty trách nhiêm hữu hạn, trong đó ràng buộc điều kiện đối với các thành viên góp vốn.
Vì vậy, đề nghị xem xét, cân nhắc mở rộng loại hình được phép tổ chức thành lập và hoạt động của doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay vì chỉ được thành lập theo hai loại hình theo luật hiện hành.
- Quyền, nghĩa vụ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 19)
Điểm g khoản 1 Điều 19 Dự thảo quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản “được chỉ định chuyên gia về Luật hoặc kinh doanh trong Danh sách các chuyên gia về tài chính, tái cấu trúc và quản lý tài sản của văn phòng, công ty chuyên về lĩnh vực này, của Bộ Kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng kiểm toán nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước làm cố vấn với sự cho phép của Tòa án”.
Quy định này cần xem xét ở các điểm sau: Hiện tại và tương lai có Danh sách này không? Căn cứ đâu để các các cơ quan này lập danh sách? Đề nghị giải trình thêm về vấn đề này để đảm bảo tính minh bạch và hợp lý của chính sách.
- Một số quy định chưa đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ
- Xử lý tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản (Điều 39)
Điều 39 Dự thảo quy định, trường hợp số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản đã nộp chưa đủ cho chi phí phục hồi, phá sản thực tế thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, phá sản phải nộp thêm phần tiền còn thiếu theo thông báo của Tòa án. Trường hợp số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản đã nộp nhiều hơn chi phí phục hồi, phá sản thực tế thì người nộp được trả lại phần tiền còn thừa theo quyết định của Tòa án.
Yêu cầu người nộp đơn phải nộp thêm phần tiền còn thiếu sau khi tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản là chưa hợp lý, chưa đảm bảo quyền lợi cho người nộp đơn là chủ nợ. Bởi vì, theo quy định tại khoản 3 Điều 37 Dự thảo, Tòa án sẽ giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản doanh nghiệp để bảo đảm chi phí phục hồi, phá sản. Như vậy, chi phí phục hồi, phá sản sẽ lấy nguồn từ tài sản của doanh nghiệp. Xét bản chất, số tiền tạm ứng chi phí phá sản, phục hồi người nộp đơn đóng chỉ để cho các hoạt động ban đầu cho đến khi doanh nghiệp bán tài sản để có chi phí thực hiện trình tự, thủ tục sau đó. Việc yêu cầu cầu chủ nợ nộp đơn phải bổ sung thêm tạm ứng chi phí sẽ khiến cho chủ nợ không có động lực gửi đơn đề nghị phá sản vì phải mất thêm số tiền trong khi số nợ lại chưa đòi được.
Đề nghị cân nhắc bỏ quy định người nộp đơn phải nộp thêm số tiền tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản quy định tại khoản 1 Điều 39 Dự thảo.
- Xử lý khoản nợ có bảo đảm (Điều 42)
Điểm a khoản 1 Điều 42 Luật Phá sản quy định, khoản nợ có bảo đảm sẽ được xử lý trừ trường hợp “tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ”. Như vậy, tài sản bảo đảm sẽ phải chờ đến khi Hội nghị chủ nợ có quyết định sử dụng tài sản này để phục hồi kinh doanh hay không. Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:
Theo quy định tại Dự thảo, để tổ chức Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi kinh doanh phải trải qua rất nhiều giai đoạn (tập hợp danh sách chủ nợ, con nợ; kiểm kê tài sản; Hội nghị chủ nợ lần 1, lập phương án phục hồi kinh doanh). Trường hợp phương án phục hồi kinh doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì “phải được chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản đó đồng ý” (khoản 3 Điều 88 Dự thảo). Nếu chủ nợ có bảo đảm không đồng ý thì tài sản đảm bảo sẽ được xử lý như thế nào? Dự thảo chỉ quy định việc xử lý tài sản đảm bảo cho “trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh”; “tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy” mà chưa quy định việc xử lý cho trường hợp trên.
Nếu trong trường hợp này, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý tương tự như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 42 Luật Phá sản, có nghĩa quy định xử lý tài sản bảo đảm sẽ được tách riêng so với việc giải quyết các khoản nợ khác của vụ việc phá sản. Tuy nhiên, quy định tại Luật Phá sản khiến cho quy trình này trở nên kéo dài và ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm. Bởi vì, phần lớn trường hợp, chủ nợ có tài sản bảo đảm sẽ không đồng ý cho sử dụng tài sản có bảo đảm vào phương án phục phồi kinh doanh – một phương án mà quyền quyết định thuộc về chủ nợ đại diện cho 65% tổng số nợ không có bảo đảm, và rủi ro rất lớn là họ sẽ mất tài sản bảo đảm nếu doanh nghiệp không thể phục hồi kinh doanh. Vì tính chất này, Dự thảo quy định theo hướng, bắt các chủ nợ này phải “chờ đợi” một khoảng thời gian rất dài mới được quyền xử lý tài sản bảo đảm dường như chưa thật hợp lý.
Đề nghị bổ sung quy định về trường hợp tách khoản nợ có tài sản bảo đảm để xử lý ngay và việc thi hành quyết định xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp đã tách khoản nợ, đồng thời bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 42 Luật Phá sản.
- Một số quy định khiến cho quy trình thủ tục phá sản có thể kéo dài
Một trong những điểm khiến cho doanh nghiệp không mặn mà với việc thực hiện quy trình thủ tục phá sản đó là thủ tục kéo dài, phức tạp, khiến cho doanh nghiệp, hợp tác xã “muốn chết cũng không được”. So với trước đây, Luật Phá sản 2014 đã khắc phục đáng kể về quy trình thủ tục để quy định có tính khả thi hơn. Tiếp nối tinh thần của Luật 2014, Dự thảo cũng thiết kế các quy định theo hướng rõ ràng, dễ thực hiện và rút ngắn. Tuy vậy, một số quy định của Dự thảo có thể khiến cho thủ tục trở nên kéo dài, đề nghị cân nhắc các vấn đề sau:
- Hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản
Chương II Dự thảo quy định về hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản. Đây được xem là một trong những thủ tục bắt buộc trong quy trình thủ tục phá sản. Việc hòa giải là sự thương lượng giữa chủ nợ và con nợ về việc giải quyết các khoản nợ đảm bảo quyền lợi của hai bên. Xuất phát từ tính chất này, hoạt động hòa giải nên thiết kế theo hướng tự nguyện, xuất phát từ hai phía, thay vì quy định theo hướng bắt buộc như Dự thảo “Quản tài viên có trách nhiệm tiến hành hòa giải về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; tranh chấp, khiếu nại về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã” (Điều 64).
Mặt khác, quy định tại Chương II Dự thảo cũng có thể khiến cho quy trình thủ tục phá sản kéo dài. Theo quy định tại Điều 67 Dự thảo, kết quả hòa giải phải được sự đồng ý của hội nghị chủ nợ. Như vậy, kể cả việc hòa giải thành thì cũng phải tổ chức hội nghị chủ nợ theo trình tự thủ tục của Dự thảo để có được sự đồng ý. Nếu hội nghị chủ nợ không đồng ý thì việc hòa giải này cũng không có ý nghĩa. Thủ tục lại quay trở lại theo trình tự, thủ tục xử lý phá sản.
Để đảm bảo quy trình thủ tục phá sản không bị kéo dài, đề nghị quy định hòa giải trong thủ tục phục hồi, phá sản theo hướng việc thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của chủ nợ và con nợ.
- Tạm dừng thanh toán khoản nợ sau khi có quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 53)
Khoản 4 Điều 53 Dự thảo quy định, trước khi Tòa án cho phép thanh toán các khoản nợ phải lấy ý kiến của Hội nghị chủ nợ hoặc Ban đại diện chủ nợ. Quy định này khiến cho quy trình thực hiện trở nên kéo dài, vì lại phải tổ chức Hội nghị chủ nợ để xin ý kiến, trong khi trước đó Hội nghị chủ nợ đã thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, trong đó có các nội dung thanh toán các khoản nợ. Để đảm bảo quy trình trở nên nhanh gọn, đề nghị sửa quy định tại khoản 1 Điều 53 theo hướng, trong Hội nghị chủ nợ cần xác định các khoản nợ sẽ phải thanh toán và các khoản nợ chưa thanh toán, trong đó có xem xét các khoản nợ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 và đề nghị bỏ khoản 4 Điều 53 Dự thảo.
c.Gửi giấy thông báo nợ (Điều 115)
Khoản 1 Điều 115 Dự thảo quy định về thời hạn gửi giấy thông báo nợ, nhưng “trường hợp cần thiết” thì Tòa án có thể gia hạn thời hạn gửi giấy thông báo nợ. Trường hợp “có trở ngại khách quan” thì không tính vào thời hạn này. Đây là những khái niệm chưa đủ rõ ràng và khiến cho quy trình xử lý bị kéo dài. Đề nghị bỏ quy định về có “trở ngại khách quan” không tính vào thời hạn gửi giấy thông báo nợ và quy định rõ hơn về trường hợp gia hạn.
- Thủ tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã
So với quy định hiện hành, Dự thảo đã bổ sung quy định về phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là chế định mới, hướng đến việc bảo vệ doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán có cơ hội tái cơ cấu, duy trì hoạt động thay vì phải phá sản. Việc bổ sung thủ tục này là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để thủ tục này đạt được mục tiêu đặt ra, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:
- Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 68)
Khoản 2 Điều 68 Dự thảo quy định “Chủ nợ có khoản nợ sẽ đến hạn trong vòng 06 tháng hoặc khoản nợ đã đến hạn nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi” là người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi.
Đề nghị xem xét lại chủ thể này là người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi ở các điểm sau:
– Chủ nợ, trong nhiều trường hợp sẽ không biết được doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán hay không. Việc chủ nợ có khoản nợ sẽ đến hạn, chưa thực hiện đòi nợ, chưa biết doanh nghiệp có khả năng trả hay không, vì vậy rất khó để đánh giá doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán hay không. Quy định này có khả năng sẽ đẩy doanh nghiệp vào những tình huống phải thực hiện phục hồi theo quy định của Dự thảo này, vừa mất thời gian, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa mất uy tín;
– Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 75 Dự thảo quy định, Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi trong trường hợp “chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi nhưng không được sự đồng ý của doanh nghiệp, hợp tác xã”. Như vậy, việc chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi được chấp thuận hay không phụ thuộc vào doanh nghiệp bị yêu cầu phục hồi. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp sẽ không đồng ý, vì vậy việc chủ nợ nộp đơn là không mấy ý nghĩa, chỉ khiến cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng rắc rối, khó khăn.
Đề nghị bỏ quy định tại khoản 2 Điều 68 Dự thảo.
- Thương lượng trước khi mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 77)
Khoản 1 Điều 77 Dự thảo quy định “doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền đề nghị thương lượng với chủ nợ trước khi mở thủ tục phục hồi”. Không rõ, doanh nghiệp, hợp tác xã thương lượng vấn đề gì với chủ nợ?
Nếu trong trường hợp chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền không đồng ý và đơn này sẽ không được thủ lý.
Nếu trường hợp doanh nghiệp tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì thủ tục này là phương thức để bảo vệ doanh nghiệp trước việc đòi nợ của con nợ và có cơ hội để tái cấu trúc lại doanh nghiệp.
Để đảm bảo tính rõ ràng của chính sách, đề nghị quy định rõ hơn về vấn đề thương lượng trước khi mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 78)
Khoản 2 Điều 78 Dự thảo quy định người được quy định tại điểm c đến điểm đ khoản 1 Điều 68[1] nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì Tòa án thông báo cho doanh nghiệp, hợp tác xã được yêu cầu mở thủ tục phục hồi biết về yêu cầu phục hồi. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi ý kiến về yêu cầu phục hồi cho Tòa án. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không đồng ý với yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoặc hết thời hạn nêu trên mà không gửi ý kiến thì Tòa án trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, 65% tổng số vốn góp của tất cả các thành viên dự họp trở lên có quyền thông qua nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên, 75% tổng số vốn góp của tất cả thành viên dự họp tán thành đối với nghị quyết, quyết định bán tài sản có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản trở lên. Cuộc họp Hội đồng thành viên được tiến hành khi có số thành viên dự họp sở hữu từ 65% vốn điều lệ trở lên.
Như vậy, khi thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì đủ điều kiện để thông qua nghị quyết, quyết định của hội đồng thành viên – cơ quan quyết định cao nhất của công ty TNHH hai thành viên. Do đó, khi nhóm thành viên có tỷ lệ sở hữu này yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì sẽ không có trường hợp “doanh nghiệp không đồng ý với yêu cầu mở thủ tục phục hồi”.
Quy định về tỷ lệ sở hữu số cổ phần phổ thông, tỷ lệ sở hữu tổng số vốn điều lệ quy định tại khoản 1 Điều 68 Dự thảo có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ liên quan đến các quy định của Luật Doanh nghiệp, vì vậy cần rà soát quy định này để:
– Đề nghị Ban soạn thảo Dự thảo Luật Doanh nghiệp bổ sung quy định về thẩm quyền quyết định đề nghị mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp (hiện tại, mới chỉ quy định về yêu cầu mở thủ tục phá sản);
– Phân chia tỷ lệ sở hữu số cổ phần, vốn điều lệ để đảm bảo tính thống nhất về thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp như phân tích ở trên.
- Giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi (Điều 86)
Khoản 1 Điều 86 Dự thảo quy định, sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động:
- “Trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã” (điểm d).
Đây là hoạt động đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp, nếu không trả lương cho người lao động thì lấy người đâu làm việc và thực hiện phục hồi doanh nghiệp. Đề nghị bỏ quy định việc trả lương cho người lao động phải báo cáo Quản tài viên.
– “Thanh toán khoản nợ hoặc nhận thanh toán khoản nợ mà không phù hợp với phương án phục hồi” (điểm đ)
Sau thời điểm mở thủ tục phục hồi và trước thời điểm thông qua phương án phục hồi doanh nghiệp, làm sao nhận biết được khoản nợ hoặc nhận thanh toán khoản nợ mà không phù hợp với phương án phục hồi? Đề nghị quy định rõ vấn đề này.
- Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 87)
Khoản 4 Điều 87 Dự thảo quy định “trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, Công đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên nơi doanh nghiệp, hợp tác xã không có công đoàn cơ sở nêu ý kiến về phương án phục hồi”. Đề nghị bỏ quy định này, bởi vì các cơ quan được lấy ý kiến không có cơ sở đâu để cho ý kiến đối với phương án phục hồi và cũng cần đánh giá đến tính khả thi về năng lực, tính phù hợp của các chủ thể được lấy ý kiến. Quy định này khiến cho quy trình phục hồi bị kéo dài.
- Nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (Điều 88)
Đây là nội dung rất quan trọng tác động đến tính hiệu quả của việc phục hồi hoạt động kinh doanh vì nội dung này cần thiết kế để đảm bảo phù hợp và khả thi.
Hội nghị chủ nợ sẽ xem xét và thông qua phương án phục hồi, vì vậy trong phương án phục hồi cần phải có nội dung liên quan đến giải quyết các khoản nợ của các chủ nợ để các chủ nợ có thể thấy triển vọng của mình được trả nợ khi thực hiện phương án phục hồi. Nội dung của Phương án phục hồi quy định tại Điều 88 dường như chưa thể hiện được nội dung này.
Điều 88 đang thiết kế theo hướng quá chi tiết về nội dung các biện pháp để phục hồi kinh doanh, trong khi hoạt động phục hồi, tái cơ cấu của doanh nghiệp tùy thuộc vào hiện trạng, tính chất của lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị nghiên cứu sửa đổi quy định về nội dung các biện pháp để phục hồi hoạt động doanh nghiệp theo hướng mang tính bao quát, thay vì liệt kê chi tiết như tại Dự thảo.
- Vai trò của Tòa án đối với việc phục hồi của doanh nghiệp
Dự thảo đang thiết kết phương án phục hồi của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào Hội nghị chủ nợ:
– Nếu hội nghị chủ nợ không triệu tập được, hoặc triệu tập không đáp ứng điều kiện theo quy định thì Tòa án sẽ đình chỉ thủ tục phục hồi (khoản 3 Điều 96)
– Trường hợp không đủ tỷ lệ biểu quyết mà xét thấy phương án phục hồi có tính khả thi thì người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc Quản tài viên có thể thuyết minh, giải trình bổ sung với chủ nợ không đồng ý về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Những chủ nợ đã biểu quyết không tán thành có thể biểu quyết lại (khoản 3 Điều 97)
Về mặt thực tế, chủ nợ sẽ không mấy mặn mà với hoạt động phục hồi của doanh nghiệp là con nợ vì vậy họ sẽ có xu hướng không muốn thông qua phương án phục hồi mà muốn thu hồi nợ ngay. Nếu phương án phục hồi phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của hội nghị chủ nợ, thì mục tiêu phục hồi doanh nghiệp của chế định này sẽ không thể thực hiện được. Một số nước trên thế giới, tòa án sẽ quyết định thông qua phương án phục hồi nếu phương án đó khả thi và hội nghị chủ nợ không thông qua, điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có cơ hội phục hồi và có động lực để mở thủ tục phục hồi.
Trong quy định tại Dự thảo, vai trò của tòa án khá mờ nhạt trong trường hợp này. Nếu để người quản lý doanh nghiệp, Quản tài viên thuyết phục thì sẽ không hiệu quả nếu chủ nợ không biểu quyết thông qua. Vì vậy, đề nghị thiết kế theo hướng, nếu phương án phục hồi có tính khả thi, Tòa án sẽ quyết định thông qua mặc dù hội nghị chủ nợ không thông qua.
- Đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi (Điều 101)
Điểm c khoản 1 Điều 101 Dự thảo quy định “thẩm phán quyết định không công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh”. Đề nghị quy định rõ các trường hợp nào thẩm phán quyết định không công nhận nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
- Một số quy định chưa thực sự rõ ràng
Một trong những điểm vướng của việc thực thi Luật Phá sản là các quy định chưa đủ rõ ràng, cụ thể, tạo nhiều cách hiểu khác nhau. Mặc dù, các quy định tại Dự thảo có thể được hướng dẫn chi tiết tại các văn bản cấp dưới, tuy nhiên những quy định cần phải minh bạch, tạo cơ sở cho các văn bản hướng dẫn. Một số quy định tại Dự thảo chưa đảm bảo nguyên tắc này, cụ thể:
- Ban đại diện chủ nợ (Điều 23)
Khoản 2 Điều 23 Dự thảo quy định “Ban đại diện chủ nợ không quá 05 thành viên gồm các chủ khoản nợ có giá trị của doanh nghiệp, hợp tác xã. Các chủ nợ có thể đề xuất với Thẩm phản về việc đưa chủ khoản nợ có giá trị nhỏ, đại diện người sở hữu trái phiếu tham gia thành viên của Ban đại diện chủ nợ”. Quy định này đang chưa rõ các khái niệm “giá trị lớn”, “giá trị nhỏ”. Không rõ chủ khoản nợ có giá trị nhỏ được đưa vào là ngoài 05 thành viên các chủ nợ “có giá trị lớn” hay là giới hạn không quá 05 thành viên?
Đề nghị thiết kế lại quy định này để đảm bảo rõ ràng hơn.
- Cấp, tống đạt, thông báo văn bản trong vụ việc phá sản (Điều 32)
Khoản 4 Điều 32 Dự thảo quy định “trường hợp vụ việc phá sản có số lượng lớn người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản cần phải cấp, tống đạt, thông báo văn bản thì Tòa án chỉ thực hiện việc thông báo tại Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao”. “số lượng lớn” là khái niệm đang chưa đủ rõ ràng để xác định trường hợp nào sẽ được cấp, tống đạt theo phương thức điện tử.
Khoản 7 Điều 32 Dự thảo quy định “trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã báo cáo, gửi dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh và các tài liệu khác theo quy định của Luật này thì thực hiện bằng phương thức trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ ba được ủy quyền, bằng phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật”. Quy định này có thể đưa đến cách hiểu doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi đồng thời tất cả các phương thức liệt kê tại quy định này, điều này là chưa hợp lý. Trong bối cảnh cần thúc đẩy nhanh thủ tục phá sản, tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia, đề nghị quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã có thể lựa chọn một trong các phương thức quy định tại khoản 7 này để gửi báo cáo, phương án phục hồi đồng thời quy định rõ hơn “phương thức điện tử” là cách thức gửi như thế nào.
- Tạm dừng thanh toán khoản nợ sau khi có quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 53)
Theo quy định tại Điều 53 Dự thảo, kể từ thời điểm quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực thì tạm ngừng thanh toán tất cả các khoản nợ không phù hợp với nội dung phương án phục hồi trừ trường hợp “thanh toán khoản nợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà nếu không thanh toán thì doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động kinh doanh” (điểm a khoản 2 Điều 53).
Quy định này cần được xem lại ở các điểm sau:
– Làm thế nào để biết được doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động kinh doanh nếu không nhận được khoản thanh toán nợ này? Tòa án có xem xét và xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa nào thuộc trường hợp này không?
– Xét một cách công bằng, thì bất kì doanh nghiệp nào gặp khó khăn trong việc tiếp tục hoạt động nếu không được thanh toán các khoản nợ khi đến hạn đều nên được thanh toán, không nhất thiết là phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đề nghị quy định rõ hơn về việc cách thức nào để xác định doanh nghiệp sẽ được thanh toán trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 Dự thảo.
- Thủ tục phá sản rút gọn
Điều 140 Dự thảo đưa ra 2 phương án áp dụng thủ tục phá sản rút gọn
Phương án 1: (1) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ và có dưới 20 chủ nợ không có bảo đảm hoặc (2) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ và có tổng các khoản nợ phải thanh toán không lớn (dưới 10 tỷ đồng)
Phương án 2: (1) doanh nghiệp, hợp tác xã có dưới 10 chủ nợ không có bảo đảm và có dưới 200 người lao động hoặc (2) doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ, siêu nhỏ được xem xét áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn.
Đề nghị chọn phương án 2 vì phạm vi rộng áp dụng rộng hơn.
- Một số góp ý khác
- Thứ tự phân chia tài sản (Điều 43)
Khoản 4 Điều 43 Dự thảo quy định “đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều này thì chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ theo thứ tự quy định tại khoản 1 Điều này cho đến khi thanh toán xong tất cả các khoản nợ”. Quy định này là phù hợp với tinh chất chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản của mình đối với các chủ thể là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh. Tuy nhiên, cần cân nhắc lại quy định này theo hướng nhân văn, bởi vì pháp luật phá sản của nước ta chưa quy định cho việc phá sản cá nhân – bảo vệ tài sản của cá nhân kinh doanh, việc yêu cầu phải thanh toán tất cả các khoản nợ cho đến khi thanh toán xong, trong khi không tính đến các chủ thể đó có còn tài sản hay không và các tài sản hiện tại có đủ để sinh hoạt tối thiểu hay không là chưa thực sự hợp lý.
Đề nghị cân nhắc sửa đổi quy định thanh toán các khoản nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh theo hướng có tính đến giá trị tài sản mà họ đang sở hữu và việc thanh toán thì số tài sản còn lại đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu của họ sau khi thanh toán nợ.
- Tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 54)
Điều 55 Dự thảo quy định “sau khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phục hồi, quyết định mở thủ tục phá sản, thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có thể bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh”.
Quy định theo hướng cứng áp dụng cho mọi trường hợp mở thủ tục phục hồi, mở thủ tục phá sản dường như chưa thực sự hợp lý, bởi vì khi doanh nghiệp thực hiện phục hồi, có trường hợp cần giao dịch ở nước ngoài và ký kết ở nước ngoài, người đại diện theo pháp luật cần phải xuất cảnh để thực hiện giao dịch, nếu thực hiện tạm hoãn xuất cảnh đối với với người đại diện pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện phục hồi có hiệu quả.
Đề nghị điều chỉnh quy định theo hướng chỉ hoãn xuất cảnh trong trường có người đại diện pháp luật có hành vi tẩu tán tài sản hoặc có các hành vi ảnh hưởng đến phục hồi, phá sản.
c.Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 106)
Điểm c khoản 1 Điều 106 Dự thảo quy định, trường hợp người nộp đơn là doanh nghiệp, hợp tác xã thì đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải gửi kèm báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã trong 03 năm gần nhất được kiểm toán theo quy định của pháp luật. Yêu cầu phải có báo cáo tài chính được kiểm toán sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn hơn vì trường hợp doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tình trạng tài chính đã rất khó khăn, nhiều trường hợp không có tiền để thanh toán cho dịch vụ kiểm toán.
Đề nghị quy định theo hướng doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về tính trung thực của báo cáo.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi). Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
[1] Các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên thời gian liên tục ít nhất 06 tháng, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng trong trường hợp Điều lệ công ty quy định; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên; thành viên; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm từ 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên; thành viên, nhóm thành viên có số vốn điều lệ chiếm dưới 65% trên tổng số vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên trong trường hợp Điều lệ công ty quy định; thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã