BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA QUỐC HỘI NHIỆM KỲ KHOÁ XI (2002-2007)

Thứ Ba 13:00 20-03-2007

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các vị khách quý,

Quốc hội khóa XI (2002-2007) là khóa Quốc hội đầu tiên của nước ta được tổ chức và hoạt động trong những năm đầu của thế kỷ mới, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Năm năm qua, trong bối cảnh đất nước có những thuận lợi cơ bản do công cuộc đổi mới mang lại, đồng thời phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới, Quốc hội khoá XI đã kế thừa, phát huy những thành quả và bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khoá trước, tiếp tục có những bước tiến mới rất quan trọng, đóng góp vào thành tựu chung của đất nước, xứng đáng với sự tin cậy và lòng mong đợi của nhân dân.

Thay mặt Uỷ ban thường vụ Quốc hội, tôi xin trình bày tóm tắt Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI.

I- TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA QUỐC HỘI


A- Những kết quả đã đạt được:


1. Hoạt động lập pháp có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập kinh tế quốc tế.


Về số lượng
, trong 5 năm qua, Quốc hội đã xem xét thông qua được 84 luật, bộ luật và 15 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật; Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua được 31 pháp lệnh, đưa số lượng văn bản pháp luật được thông qua trong nhiệm kỳ tăng lên rất nhiều so với trước đây, mở ra triển vọng đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.

Về chất lượng,
các dự án luật được chuẩn bị kỹ hơn theo hướng cụ thể hơn, bám sát yêu cầu về mọi mặt của công cuộc đổi mới đất nước, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm, phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Nội dungcác vấn đề được quy định trong các luật, bộ luật đã cơ bản bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đến tổ chức bộ máy nhà nước, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đặc biệt, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các đạo luật về kinh tế thuộc các lĩnh vực: doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, kinh doanh bất động sản, cải cách chính sách thuế…, bảo đảm phù hợp với điều kiện, mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều bộ luật lớn quy định về trình tự thủ tục đã được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự... Nhiều lĩnh vực rất mới và khó như cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, chuyển giao công nghệ…đã được Quốc hội ban hành các đạo luật để điều chỉnh.

2. Hoạt động giám sát có bước đổi mới cả về nội dung và hình thức, góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật, nghị quyết của Quốc hội.


Nội dung giám sát
đã tập trung vào các vấn đề bức xúc được dư luận phản ánh và nhân dân quan tâm, như: đầu tư dàn trải, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; triển khai thực hiện một số công trình quan trọng quốc gia (nhà máy lọc dầu Dung Quất, Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng); giáo dục; y tế; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật v.v...

Phương thức tiến hành giám sát
đã có những cải tiến nhất định, theo hướng tăng cường giám sát tối cao, xem xét báo cáo của Chính phủ kết hợp với giám sát thực tế tại địa phương, cơ sở; vừa thực hiện giám sát thường xuyên, vừa giám sát theo chuyên đề. Việc Quốc hội tiến hành giám sát tại kỳ họp đối với một số nội dung chuyên sâu, đổi mới việc chất vấn kết hợp với việc nghe báo cáo giám sát chuyên đề đã góp phần nâng cao hiệu quả giám sát tối cao, được cử tri hoan nghênh.

K
ết quả hoạt động giám sát của Quốc hội đã có tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. Qua giám sát, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đưa ra nhiều ý kiến, kiến nghị (thông qua các báo cáo thẩm tra, thuyết trình và thảo luận) đóng góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Phần lớn những kết luận, kiến nghị của cơ quan giám sát đã được các cơ quan chức năng tiếp thu trong quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cơ chế chính sách và công tác chỉ đạo điều hành của ngành, lĩnh vực. Trong các báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ hằng năm, Chính phủ đã khẳng định thành quả đạt được có phần đóng góp quan trọng từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Tác động của hoạt động giám sát cũng đã tạo nên chuyển biến đáng kể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

3. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng thực chất hơn.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Quốc hội khoá XI đã xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, từ tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao thuộc thẩm quyền của Quốc hội; nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước cho đến chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia; phê chuẩn Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số nước; phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới...

Ngoài ra, với việc thông qua Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) và Luật Kiểm toán nhà nước, Quốc hội đã tạo lập cơ chế bảo đảm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng về tài chính, ngân sách.

4. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần phát huy vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam nói riêng, đất nước Việt Nam nói chung trên trường quốc tế.

Kết quả nổi bật của các hoạt động đối ngoại song phương là đã củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, nghị viện châu Âu, nghị viện nhiều nước thuộc liên minh châu Âu, làm cho các mối quan hệ này phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; phát triển quan hệ với nghị viện các nước thuộc khu vực châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ; củng cố và từng bước đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước Trung Đông Âu.

Về quan hệ đa phương, là thành viên của nhiều tổ chức liên nghị viện, Quốc hội Việt Nam không chỉ đóng góp tích cực vào hoạt động của các diễn đàn này, mà còn chủ động đề xuất các sáng kiến, đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, Quốc hội đã chủ trì tổ chức thành công nhiều hội nghị quan trọng tại Việt Nam như: Đại hội đồng AIPO lần thứ 23; hội nghị đối tác Nghị viện Á-Âu (ASEP-3) lần thứ 3; hội nghị Ban chấp hành liên minh nghị viện cộng đồng pháp ngữ (APF); hội nghị lần thứ 13 Diễn đàn nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương (APPF-13)... Kết quả đạt được này đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Ngoài ra, qua con đường ngoại giao nghị viện, Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại trên nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo,...làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết về thực tiễn và quan điểm đúng đắn của nước ta. Hoạt động đối ngoại cũng đã góp phần phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, tích cực vận động các đối tác kết thúc đàm phán song phương, hoàn tất các vòng đàm phán đa phương để Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới; xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Tóm lại,
những kết quả nổi bật trong hoạt động của Quốc hội khoá XI là đã thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình: Hoạt động lập pháp có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng; hoạt động giám sát đã đi vào trọng tâm, có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức; việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng thực chất hơn; hoạt động đối ngoại tiếp tục được mở rộng và tăng cường; góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước.
Đạt được những kết quả nêu trên trước hết là do có sự lãnh đạo và đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng; sự phối hợp chặt chẽ của Chủ tịch nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan; sự ủng hộ và khích lệ đầy tâm huyết của đồng bào ta ở trong nước và ở nước ngoài; đồng thời là sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi đại biểu Quốc hội. Ở đây xin tập trung nêu một số nguyên nhân chủ quan từ hoạt động của Quốc hội: 

Thứ nhất, Quốc hội khóa XI đã kế thừa và phát huy tốt thành quả sự nghiệp đổi mới của đất nước và của Quốc hội các nhiệm kỳ trước; có những bước đi đúng hướng, phù hợp với điều kiện thực tế của Quốc hội nước ta:


Trong hoạt động lập pháp,
đã sớm sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những đổi mới quan trọng liên quan đến trình tự xem xét, thông qua luật tại kỳ họp, đề cao trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, tăng cường vai trò của các cơ quan của Quốc hội trong việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật trước khi trình Quốc hội. Việc soạn thảo, thẩm tra dự án luật được tiến hành tích cực, khẩn trương có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan. Cơ quan thẩm tra đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến đại diện các chủ thể áp dụng pháp luật, các chuyên gia, phát huy vai trò của các Tiểu ban nên các báo cáo thẩm tra có chất lượng tốt, mang tính phản biện cao. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về các dự án luật tiếp tục được chú trọng và có đổi mới, thể hiện tính dân chủ, sự thận trọng trong hoạt động lập pháp, vừa huy động được trí tuệ, sự đồng thuận của nhân dân, vừa bảo đảm tính rõ ràng, công khai ngay trong quá trình chuẩn bị dự án luật.

Một điểm mới trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI là đã có Uỷ ban của Quốc hội chủ động đề xuất, chủ trì soạn thảo dự án luật, trong đó có dự án đã được Quốc hội thông qua và có dự án đang trong quá trình chuẩn bị. Điều này mở ra khả năng các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có thể kiến nghị về luật, thực hiện việc soạn thảo và trình dự án luật nhiều hơn trong thời gian tới.

Về kỹ thuật lập pháp, Quốc hội đã thực hiện hình thức mới là ban hành một luật để sửa đổi, bổ sung nội dung của một số luật nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc sống, đơn giản thủ tục mà vẫn bảo đảm chất lượng. Việc tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách và áp dụng thử nghiệm phương thức thảo luận tại hai Hội trường đối với các dự án luật trình cho ý kiến lần đầu, góp phần nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án, tiết kiệm thời gian, tạo điều kiện để Quốc hội thông qua luật tại kỳ họp nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Trong hoạt động giám sát
, nhận thức và cách thức tiến hành đã được cải tiến một bước. Không chỉ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân các vị đại biểu Quốc hội - những chủ thể chủ yếu có quyền giám sát, mà ngay cả các cơ quan chịu sự giám sát, cử tri và nhân dân đều thấy rằng đây là một nhiệm vụ rất quan trọng đòi hỏi phải được tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Với việc ban hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội đã tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành những cải tiến trong quá trình triển khai thực hiện chức năng này. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã được tiến hành bài bản hơn, có định hướng mục tiêu cụ thể và có chương trình, kế hoạch theo các trình tự đã được Quốc hội quyết định, từng bước kết hợp nhiều hình thức giám sát, huy động, phát huy vai trò của tổng thể bộ máy của Quốc hội, sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các Đoàn đại biểu Quốc hội.

Trong quyết định các vấn đề quan trọng
, đã phát huy dân chủ trong quá trình thảo luận, đặt trong một quy trình khá cụ thể, chặt chẽ, khoa học, gắn kết với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước.

Thứ hai, Quốc hội khóa XI đã có những đổi mới quan trọng về tổ chức và phương thức hoạt động:


Về tổ chức,
so với nhiệm kỳ Quốc hội trước, số lượng đại biểu tăng từ 450 lên 498 vị, với 93,37% có trình độ đại học trở lên, trong đó gần 25% là đại biểu Quốc hội chuyên trách, tạo điều kiện cho tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội nâng cao được hiệu năng hoạt động, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội tại kỳ họp. Ở các Đoàn đại biểu Quốc hội, hầu hết cũng đã có đại biểu Quốc hội chuyên trách làm việc. Thực tiễn cho thấy việc tăng thêm hợp lý các đại biểu Quốc hội chuyên trách là cần thiết.

Về phương thức hoạt động,
đã có những đổi mới, nhất là về qui trình, thủ tục, bao gồm quy trình lập pháp, quy trình giám sát và quyết định các công trình quan trọng quốc gia. Cách thức tiến hành kỳ họp thường xuyên được cải tiến, từ việc xem xét, cho ý kiến và thông qua các dự án luật; quyết định các vấn đề về kinh tế - xã hội; tổ chức bộ máy, nhân sự cấp cao, đến quyết định các công trình, dự án quan trọng quốc gia; giám sát tối cao, chất vấn, trả lời chất vấn đều được Quốc hội tiến hành xem xét theo đúng quy trình, dân chủ, công khai, phát huy được nguồn trí tuệ của tập thể đại biểu Quốc hội.

Quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới, bảo đảm vừa phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa đề cao được vị trí của Quốc hội, tăng cường quan hệ phối hợp giữa Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Các mối quan hệ đó không những được thực hiện theo các quy định pháp luật mà còn bằng các quy chế công tác cụ thể, làm cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức có chất lượng và hiệu quả hơn.

B- Những hạn chế, yếu kém:
Tập trung vào một số vấn đề sau đây:
 
Công tác lập pháp
,tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn có những quy định trong một số luật thiếu tính cụ thể,phải có văn bảnhướng dẫn mới thực hiện được. Một số văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh ban hành chậm, chưa đồng bộ, cá biệt còn chồng chéo.Không ít trường hợp chưa bám sát và phản ánh thật đúng thực tiễn cuộc sống, tính dự báo chưa cao, tính khả thi còn thấp, dẫn đến một số quy định khó đi vào cuộc sống, phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với một số dự án luật, pháp lệnh còn chưa đầy đủ. Việc giải thích luật, pháp lệnh còn những bất cập đã làm giảm hiệu lực thực tế của một số văn bản được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành.

Hoạt động giám sát
chưa đáp ứng yêu cầu cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa làm được nhiều và thường xuyên; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng thể của các cơ quan Quốc hội trong việc giám sát các vấn đề bức xúc mà cử tri cả nước và đại biểu Quốc hội quan tâm. Vẫn còn nhiều kiến nghị giám sát chung chung, thiếu cụ thể; cơ quan tiến hành giám sát chưa theo dõi, đôn đốc đến cùng việc tiếp thu, giải quyết các kiến nghị để đánh giá đúng kết quả, hiệu lực giám sát. Trong một số trường hợp, cơ quan chịu sự giám sát chưa nghiêm túc, kịp thời xem xét tiếp thu giải quyết kiến nghị và trả lời cơ quan giám sát. Hoạt động giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn nhiều khó khăn, lúng túng và kết quả chưa thật rõ nét.

Trong việc quyết định các vấn đề quan trọng
, chất lượng một số quyết định chưa cao, hiệu lực thực thi thấp, tính dự báo trong một số quyết định dài hạn còn chưa đầy đủ và chuẩn xác.

Trong hoạt động đối ngoại,
việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động chưa thật tốt; việc nắm bắt, trao đổi cung cấp thông tin chưa thông suốt, dẫn đến hiện tượng nhiều đoàn cùng nghiên cứu một nội dung tại cùng một nước; việc kết hợp một số dự án nước ngoài với hoạt động đối ngoại chưa thật hài hòa, hiệu quả còn thấp.
 
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:

- Về xây dựng pháp luật
, quy trình lập pháp tuy có được cải tiến nhưng chưa đồng bộ, toàn diện, mới chủ yếu tập trung về mặt kỹ thuật (thủ tục), còn thiếu chế tài quy định về trách nhiệm của các chủ thể tham gia quy trình lập pháp. Nhiều vấn đề lớn có ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận chưa được tiến hành biểu quyết làm cơ sở cho việc chỉnh lý trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp sau. Chưa quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan phối hợp thẩm tra đối với dự án được phân công tham gia thẩm tra; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể huy động chuyên gia. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ và hàng năm có trường hợp chưa đủ cơ sở thực tiễn, chưa đánh giá được đầy đủ nhu cầu xã hội và tính khả thi; việc lựa chọn, sắp xếp thứ tự ưu tiên đối với một số dự án chưa sát thực; tính cục bộ ở một số lĩnh vực, ở một vài dự án luật còn nặng.

- Về hoạt động giám sát,
một số quy định trong Luật hoạt động giám sát còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc chưa hướng dẫn kịp thời (nhất là cơ chế tiếp thu giải quyết các kết luận, kiến nghị sau giám sát; thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn). Tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm còn lớn; nhiều đại biểu còn thiếu kỹ năng, kinh nghiệm giám sát, trong khi đó công tác bồi dưỡng, hỗ trợ nghiên cứu, cung cấp thông tin phục vụ giám sát chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời. Bộ máy tham mưu, tổ chức phục vụ hoạt động giám sát chưa đủ mạnh; thời gian dành cho hoạt động giám sát chưa thích đáng.

- Về việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
, thông tin đầu vào phục vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng chưa thật đầy đủ và có trường hợp chưa thật chính xác, do đó ảnh hưởng đến việc quyết định của Quốc hội. Tính độc lập, khả năng phân tích, đề xuất chính sách của đại biểu còn có hạn; tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chưa ngang tầm với khối lượng và yêu cầu công việc; cơ chế sử dụng chuyên gia thực hiện chưa tốt. Việc thiếu các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu để tham mưu phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định là một trong những nguyên nhân khá quan trọng dẫn đến thiếu căn cứ xác thực, làm hạn chế chất lượng các quyết định.

- Về phía đại biểu,
điều kiện hoạt động, thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu, nhất là các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm còn ít; đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong nhiệm kỳ có tăng, nhưng chất lượng so với yêu cầu nhiệm vụ thì còn yếu.

- Sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và sự phối hợp với các cơ quan hữu quan có lúc còn chưa được nhịp nhàng, có việc thiếu chặt chẽ đã ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ trong việc thực hiện một số nhiệm vụ chung.

Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội các khóa nói chung và khóa XI nói riêng chỉ ra rằng, so với nhiệm vụ và quyền hạn mà Hiến pháp và Luật qui định thì về tổ chức bộ máy của Quốc hội nhìn chung chưa ngang tầm, bộ máy chưa đáp ứng công việc một cách đầy đủ. Nhiệm vụ và quyền hạn được Hiến pháp và Luật giao cho Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội rất nặng nề, khối lượng công việc được quy định rất nhiều, quá tải so với bộ máy hiện có. Vì vậy, phải tiếp tục kiện toàn, đổi mới các cơ quan của Quốc hội để tạo điều kiện cho Quốc hội khóa mới đảm đương ngày càng đầy đủ hơn, tốt hơn nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
 
 
II- MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Một số bài học kinh nghiệm

Từ những kết quả và các mặt còn hạn chế trong nhiệm kỳ qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội:

Một là,
mọi hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phải bám sát đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, nhất là về kinh tế, hoạt động của cơ quan tư pháp… Đảng lãnh đạo để Quốc hội thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật theo hướng phát huy dân chủ, thẳng thắn, nâng cao trí tuệ. Đảng đổi mới sự lãnh đạo là yếu tố quan trọng tạo nên những thành công trong hoạt động của Quốc hội nhiệm kỳ qua.
 
Hai là,
có gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân thì đại biểu Quốc hội mới hiểu sâu sắc những mong muốn, yêu cầu của người dân. Có như thế, đại biểu Quốc hội mới thực sự làm tròn trách nhiệm là người đại diện cho tiếng nói, ý chí và nguyện vọng của cử tri cả nước, Quốc hội mới thực sự trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân.

Ba là,
các kỳ họp Quốc hội được tiến hành dân chủ, các ý kiến trao đổi thẳng thắn, xây dựng thì các quyết định của Quốc hội mới chính xác và có chất lượng cao, phù hợp với cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân.

Bốn là,
chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Năm là,
trong hoạt động lập pháp, việc ban hành được nhiều luật, pháp lệnh là rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là luật, pháp lệnh phải có chất lượng cao, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi và sớm đi vào cuộc sống. Để vừa tăng được số lượng và chất lượng thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động lập pháp phải cao, định hướng chính sách luật phải rõ ràng ngay từ khi dự kiến hoạch định chính sách. Đồng thời quy trình lập pháp phải khoa học, mang tính ổn định, chặt chẽ, bảo đảm cả yêu cầu kỹ thuật và nội dung; dự thảo phải có chất lượng; các tổ chức, các thành viên tham gia các công đoạn trong quy trình và bộ phận tham mưu giúp việc cho các cơ quan này phải có trình độ chuyên môn sâu, thành thạo công việc.

Sáu là
, trong hoạt động giám sát, cơ sở pháp lý càng hoàn thiện thì hoạt động càng có hiệu quả; tuy nhiên, các quy định của Luật phải cụ thể và mang tính quy phạm chặt chẽ. Cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động này, từ các cơ quan Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cho đến các cơ quan chịu sự giám sát và trong nhân dân. Ngoài ra, việc tăng cường tổ chức bộ máy của các cơ quan Quốc hội; sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và công tác tham mưu phục vụ cũng là những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát.

Bảy là,
sự đồng thuận, nhất trí cao, cộng đồng trách nhiệm của tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, từng cá nhân đại biểu Quốc hội; sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị; sự đóng góp tích cực của cử tri và nhân dân cả nước là yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

2. Về phương hướng nhiệm vụ của Quốc hội trong thời gian tới

Chúng ta sắp kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ mới trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn với tư cách là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Kế thừa những kết quả đã đạt được, từ những hạn chế yếu kém và những bài học kinh nghiệm được rút ra, từ thực tiễn tổ chức và hoạt động trong nhiệm kỳ qua, để xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta kiến nghị Quốc hội khóa XII và các khóa tiếp sau một số vấn đề sau đây:

2.1. Tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có chất lượng công tác lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.


Về công tác xây dựng pháp luật,
cần nhanh chóng tăng cường năng lực lập pháp, tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và đầy đủ; mỗi văn bản trong hệ thống pháp luật phải có chất lượng tốt, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn, có tính khoa học và khả thi cao. Vấn đề nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật phải được thực hiện một cách đồng bộ, kết hợp hàng loạt biện pháp, bao gồm việc định hướng chính sách luật rõ ràng và cụ thể ngay ở khâu xây dựng chương trình luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ và hàng năm; đổi mới quá trình chuẩn bị và xem xét thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội; bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động lập pháp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, đồng thời nắm bắt được ý dân về những vấn đề mà cuộc sống đòi hỏi cần có sự điều chỉnh của pháp luật để ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời những quy định của pháp luật.

Nghiên cứu, áp dụng việc xây dựng những dự án luật ngắn gọn, có thể chỉ điều chỉnh một vài vấn đề thật cụ thể, cấp thiết; tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định quy trình rút gọn khi ban hành một đạo luật, ban hành một đạo luật mà có thể sửa đổi, bổ sung nhiều luật; cải tiến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân cho có hiệu quả thiết thực hơn. Tổng kết cách thức thảo luận vừa được áp dụng thí điểm (hội nghị đại biểu chuyên trách; tổ chức thảo luận tại hai hội trường) để rút kinh nghiệm và tiếp tục đổi mới trong nhiệm kỳ tới. 

Về công tác giám sát,
cần tiếp tục nâng cao nhận thức và cải tiến cách thức tiến hành để không ngừng nâng cao chất lượng, bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước các cấp và các cơ quan tư pháp.

Khắc phục tình trạng giám sát chỉ nặng về chiều rộng mà thiếu chiều sâu; tăng cường giám sát theo chuyên đề, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó lưu ý việc sử dụng ngân sách nhà nước, giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng quy định cụ thể, chi tiết, có chế tài cụ thể về việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát, trong đó có trách nhiệm trả lời việc xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân, việc thực hiện những cam kết khi trả lời chất vấn. Rà soát, tổng kết, sửa đổi một số nội dung chưa phù hợp liên quan đến hoạt động giám sát trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội... Tăng cường các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội. Chú trọng trao đổi thông tin hai chiều về hoạt động giám sát giữa Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội với Hội đồng nhân dân địa phương về kết quả giám sát tại địa phương và giữa Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân với các cơ quan của Quốc hội.

Khắc phục tình trạng nể nang, dĩ hoà vi quý trong giám sát hoạt động của các bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn theo hướng đi sâu giải quyết từng vấn đề được chất vấn; nghiên cứu bổ sung các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nghiên cứu cải tiến quy trình, phương thức tiến hành giám sát; xây dựng cơ chế xem xét, giải quyết kiến nghị qua giám sát.

Về quyết định các vấn đề quan trọng,
xây dựng và thực hiện một quy trình đồng bộ cho việc quyết định các vấn đề quan trọng, từ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn điều ước quốc tế v.v.. đến việc quyết định các công trình quan trọng quốc gia. Xây dựng cơ chế và có phương pháp để Quốc hội có thực quyền trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đặc biệt là về ngân sách nhà nước. Có cơ chế để các đại biểu Quốc hội nắm bắt được thông tin đa chiều trước khi quyết định.

Xây dựng các nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng quốc gia theo hướng quy phạm hóa, lượng hóa các quyết định của Quốc hội để nâng cao giá trị và tính ràng buộc pháp lý của các Nghị quyết; đồng thời, các Nghị quyết này phải được các cơ quan hữu quan của Quốc hội thẩm tra trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.

2.2. Củng cố, tăng cường và đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội theo hướng phân cấp mạnh và nâng cao thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội


Tổ chức và hoạt động của Quốc hội cũng như các cơ quan của Quốc hội cần phải được kiện toàn theo hướng mở rộng dân chủ, hướng tới xây dựng Quốc hội hoạt động thường xuyên. Trước mắt, tiến hành củng cố tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Thành lập thêm một số Uỷ ban của Quốc hội để tạo điều kiện cho các Uỷ ban chuyên môn hoá hoạt động của mình theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực như tư pháp, tài chính, ngân sách...

Tăng cường năng lực hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm chính về việc thảo luận và xem xét những vấn đề quan trọng trước khi trình Quốc hội thảo luận và biểu quyết. Quy định tăng thẩm quyền của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong quy trình lập pháp, nhất là việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, hướng tới việc thảo luận, cho ý kiến, hoàn thiện văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết sẽ được thực hiện chủ yếu tại các cơ quan của Quốc hội

Đề cao vai trò của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong công tác giám sát, tăng cường giám sát tại các phiên họp của các cơ quan này; quy định cụ thể việc thực hiện chất vấn, trả lời chất vấn ở Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội.

Nâng cao vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội nhằm bảo đảm cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được giao có hiệu quả ngày càng cao. Tăng cả về số lượng lẫn chất lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, nhất là các đại biểu có trình độ chuyên môn sâu hoạt động thường trực và chuyên trách tại Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; đồng thời nâng cao năng lực của đội ngũ chuyên gia làm việc tại các cơ quan tham mưu, giúp việc của Văn phòng Quốc hội. 

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các vị khách quý,

Nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, tôi xin được thay mặt Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp có hiệu quả của Chủ tịch nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ngành, các cấp, sự quan tâm của các bậc lão thành cách mạng; sự ủng hộ và đóng góp quý báu của nhân dân cả nước, của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế; xin cảm ơn các cơ quan, các cán bộ, nhân viên đã tích cực phục vụ Quốc hội và góp phần vào thành công của Quốc hội. Trước cử tri và nhân dân cả nước, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội xin nhận trách nhiệm về những gì mà Quốc hội chưa làm được và sẽ nghiêm túc xem xét, kiến nghị khắc phục và thực hiện tốt hơn trong nhiệm kỳ tới.

Thay mặt Uỷ ban thường vụ Quốc hội, tôi đã trình bày những vấn đề chủ yếu về tổ chức, hoạt động của Quốc hội khoá XI. Rất mong các vị đại biểu Quốc hội đóng góp ý kiến để Quốc hội trong nhiệm kỳ tới thực sự là một Quốc hội mạnh cả về lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, ngày càng xứng đáng với lòng mong đợi của nhân dân, xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xin trân trọng cảm ơn./.

Các văn bản liên quan