VCCI góp ý về doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Thứ Sáu 11:34 09-12-2016

Kính
gửi: Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ

                         Bộ Khoa
học và Công nghệ

Trả lời
Công văn số 4625/BKHCN-PTTTTDN của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 09/11/2016 về
việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định về doanh nghiệp khoa học và công nghệ (sau
đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý
kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

I.
Những vấn đề
còn có ý kiến khác nhau

Theo Tờ
trình thì Dự thảo có hai nội dung còn có ý kiến khác nhau, đó là:


Mở rộng đối
tượng thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ:

So với quy
định hiện hành thì Dự thảo mở rộng đối tượng được công nhận là doanh nghiệp
khoa học và công nghệ gồm cả “hợp tác xã” thay vì chỉ giới hạn là “doanh nghiệp”,
với lý do trong thực tiễn, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quyền sử dụng, sở
hữu các kết quả khoa học và công nghệ và đáp ứng các điều kiện để được công nhận
là doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Do vậy, mở rộng là phù hợp với thực tế,
khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ trong các tổ chức này.

Lý do, mở rộng
đối tượng được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo giải trình
của Ban soạn thảo là hợp lý, tuy
nhiên quy định này lại chưa thống nhất với Luật Khoa học và Công nghệ.

Cụ thể, điểm
a khoản 2 Điều 58 Luật Khoa học và công nghệ 2013 quy định, một trong những điều
kiện để được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ là “doanh nghiệp
được thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định
của Luật Doanh nghiệp”. Như vậy, điều kiện về chủ thể pháp lý ở đây phải là
“doanh nghiệp” đăng ký và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Việc xác định, hợp
tác xã cũng được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ là chưa phù hợp
với Luật Khoa học và Công nghệ.


Về điều kiện
tỷ lệ doanh thu để thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Theo quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 58 Luật Khoa học và công nghệ 2013 thì “doanh thu từ việc
sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định”. Nghị định 80/2007/NĐ-CP xác định
tỷ lệ này là 30%, 50%, 70% tổng doanh thu qua các năm từ thứ nhất đến thứ ba trở
đi.

Qua thực tế
cũng như phân tích tính hợp lý cho thấy, quy định điều kiện về doanh thu là
chưa phù hợp và không mang nhiều ý nghĩa trong xác định ưu đãi về thuế cho các
doanh nghiệp khoa học và công nghệ[1].
Do đó, Dự thảo đã đề xuất bỏ quy định điều kiện về doanh thu để xác định doanh
nghiệp khoa học và công nghệ. Đề xuất này là hợp lý, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi, tuy nhiên lại chưa phù hợp
với quy định tại Luật Khoa học và Công nghệ 2013.

Các phân
tích ở trên cho thấy, các quy định sửa đổi tại Dự thảo so với quy định hiện
hành là hợp lý, tuy nhiên lại gặp vướng
tính thống nhất với Luật Khoa học
và công nghệ 2013. Trong mọi trường hợp, các quy định hướng dẫn tại nghị định đều
không được trái luật. Do đó, tính pháp lý của quy định sửa đổi các vấn đề trên
cần được xem xét lại. Đề nghị Ban soạn thảo kiến nghị sửa đổi Luật Khoa
học và công nghệ 2013 liên quan đến các quy định trên, sau đó mới soạn thảo Nghị
định hướng dẫn về doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Trong trường
hợp, cần phải sửa đổi để tạo điều kiện tức thời cho các đối tượng được hưởng
các chính sách theo doanh nghiệp khoa học và công nghệ thì cần điều chỉnh tỷ lệ
doanh thu xuống mức thấp mà các doanh nghiệp có thể đạt được – đây là phạm vi
mà Chính phủ có thẩm quyền quy định theo quy định tại Luật.

II.
Một số góp
ý liên quan đến các quy định tại Dự thảo

1.
Trình tự
thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Điều 7)

Theo quy định
tại đoạn 2 điểm b khoản 1 Điều 7 Dự thảo thì nếu chi nhánh của doanh nghiệp đáp
ứng điều kiện để được chứng nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ cũng thực
hiện việc thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Quy định
này dường như là chưa hợp lý ở điểm, theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật
Doanh nghiệp 2014 thì, “chi nhánh, là đơn vị
phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức
năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Ngành, nghề kinh
doanh của chi nhánh phải đúng với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp”.

Như vậy,
chi nhánh không phải là chủ thể kinh doanh độc lập mà hoạt động nhân danh doanh
nghiệp. Do đó, quy định tại khoản 1 Điều 7 Dự thảo xem chi nhánh như một chủ thể
kinh doanh độc lập là chưa phù hợp với bản chất của đơn vị này. Nếu chi nhánh
đáp ứng điều kiện để được chứng nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ thì
doanh nghiệp mà chi nhánh đó trực thuộc sẽ thực hiện thủ tục để được cấp giấy
chứng nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ và chi nhánh này sẽ là đơn vị trực
thuộc của doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Từ phân
tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại đoạn 2 điểm b khoản 1
Điều 7 Dự thảo, tức là bỏ quy định “Chi
nhánh của doanh nghiệp nếu đáp ứng đủ các điều kiện để được chứng nhận là doanh
nghiệp khoa học và công nghệ quy định tại Điều 5 Nghị định này cũng thực hiện
việc thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo trình tự quy định tại
khoản này”
.

2.
Thay đổi nội
dung Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Điều 10)

Điều 10 Dự
thảo quy định về trình tự thủ tục thay đổi nội dung Giấy chứng nhận doanh nghiệp
khoa học và công nghệ, tuy nhiên trong thủ tục này, Dự thảo lại không quy định
về thời gian cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ
sơ, để yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung, mà chỉ quy định về thời hạn xem
xét, cấp lại Giấy chứng nhận kể từ khi “nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ của doanh
nghiệp”.

Việc thiếu
vắng quy định về thời hạn này sẽ có thể dẫn tới hiện tượng doanh nghiệp phải đi
lại nhiều lần để hoàn thiện hồ sơ và không nhận biết được lúc nào thì mình nộp
được hồ sơ hợp lệ. Do đó, để hạn chế tình trạng này, đề nghị Ban soạn thảo
bổ sung quy định, trong thời hạn 01 ngày làm việc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sẽ xem xét và trả lời về tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ.

Góp ý tương
tự đối với thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ
quy định tại Điều 11 Dự thảo.

3.
Cấp lại Giấy
chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Điều 11)

Điều 11 Dự
thảo thiết kế thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ
theo hướng: doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục khai báo với cơ quan công an cấp
xã và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về trường hợp mất giấy chứng
nhận của mình trước khi thực hiện thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận.

Việc Dự thảo
quy định doanh nghiệp phải thực hiện hai thủ tục (thông báo mất giấy chứng nhận
ở cơ quan công an và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng) trước khi
thực hiện thủ tục xin cấp lại là chưa hợp lý, tạo ra gánh nặng về thủ tục hành
chính cho doanh nghiệp. Bởi:


Trong các thủ tục hành chính tương tự ở các văn bản quy
phạm pháp luật về việc cấp lại giấy phép khi bị mất, doanh nghiệp không phải thực
hiện thủ tục báo mất ở công an hay đăng tải trên phương tiện thông tin đại
chúng, trong hồ sơ xin cấp lại cũng không yêu cầu các giấy tờ chứng minh đã thực
hiện hai thủ tục này. Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ cũng
không khác biệt so với các loại giấy phép khác, do đó thiết kế cho thủ tục xin
cấp lại giấy chứng nhận này khác với các loại giấy phép khác dường như chưa có
lý do phù hợp;


Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ được
cấp cho đích danh doanh nghiệp. Trong trường hợp chủ thể khác lấy được Giấy chứng
nhận này thì giá trị sử dụng – về mặt pháp lý, đối với chủ thể đó cũng không
có. Trong trường hợp, doanh nghiệp đã có Giấy chứng nhận vì muốn có thêm Giấy
chứng nhận thứ hai thì việc sử dụng các Giấy chứng nhận này cũng không ảnh hưởng
tới các trật tự công mà Nhà nước phải quản lý. Do đó, việc khai báo cho cơ quan
công an hay đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng – là không cần thiết
và chưa rõ về mục tiêu quản lý Nhà nước trong trường hợp này, trong khi đây lại
là thủ tục tạo gánh nặng cho doanh nghiệp.

Từ phân
tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về việc doanh nghiệp phải
thông báo với cơ quan công an cấp xã và đăng tin trên phương tiện thông tin đại
chúng về việc mất giấy chứng nhận. Thiết kế lại hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy chứng
nhận này tại khoản 1 Điều 11 theo hướng, doanh nghiệp chỉ cần có văn bản đề nghị
cấp lại giấy chứng nhận và cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét để cấp lại
Giấy chứng nhận.

Về thời hạn
cấp lại Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường hợp bị
mất hoặc rách, nát, khoản 5 Điều 11 Dự thảo quy định là 10 ngày làm việc. Đây
là khoảng thời gian khá dài để xem
xét, cấp lại Giấy chứng nhận trong các trường hợp đơn giản trên. Để tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo rút ngắn thời gian giải quyết
còn 05 ngày làm việc.

4.
Thu hồi Giấy
chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Điều 12)

Theo quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 12 Dự thảo thì “doanh nghiệp khoa học và công nghệ
không thực hiện chế độ báo cáo trong 02 năm liên tiếp về tình hình hoạt động
theo quy định” là một trong những trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận doanh
nghiệp khoa học và công nghệ.

Chế tài này
dường như là quá nặng đối với hành vi vi phạm này (bởi hành vi này không tác động
trực tiếp đến các mục tiêu quản lý cốt lõi trong lĩnh vực này – đó là doanh
nghiệp không đáp ứng để được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ)
và chưa rõ ràng ở điểm: Dự thảo không có quy định nào liên quan đến nghĩa vụ
báo cáo của doanh nghiệp khoa học và công nghệ và không rõ nghĩa vụ báo cáo này
quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào. Đề nghị Ban soạn thảo bỏ
trường hợp thu hồi này, tức là bỏ điểm c khoản 1 Điều 12 Dự thảo. Trong trường
hợp giải trình thuyết phục được việc giữ hành vi này, đề nghị quy định rõ về
nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp khoa học và công nghệ hoặc dẫn chiếu tới văn
bản có quy định.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định về doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

 


[1]
Trang 11 Tờ trình – Tài liệu đính kèm Dự thảo