VCCI góp ý Dự thảo Luật Du lịch
PHÒNG VÀ
Số: Vv: góp |
CỘNG Độc
Hà |
Kính gửi: Tổng cục Du lịch
Trả lời Công văn số 2172/VHTTDL-TCDL
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Du lịch
(sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ
sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:
1. Về Khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch
Chương V Dự thảo quy định về các khu
du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch, trong đó có quy định về
việc xếp hạng, thẩm quyền xếp hạng và việc quản lý.
Tuy nhiên, quy định tại Dự thảo về vấn
đề này có một số điểm chưa rõ ràng như:
–
Về nhận diện loại hình địa điểm du lịch: Dự thảo hiện không có quy định nào cho
phép “nhận diện” hay phân biệt các địa điểm du lịch này. Nói cách khác, với quy
định hiện tại của Dự thảo, không thể phân biệt được khi nào một địa điểm du lịch
là khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch? Đặc trưng của mỗi
loại địa điểm du lịch này là gì?
–
Về cơ chế áp dụng cho mỗi loại địa điểm
du lịch: Hiện Dự thảo
không quy định cụ thể về cơ chế áp dụng cho từng địa điểm du lịch. Nếu vậy thì
việc phân định các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch hay đô thị du lịch như
trong Chương V để nhằm mục đích gì? Thông thường thì việc phân biệt chỉ có ý
nghĩa nếu với mỗi loại hình Nhà nước có chính sách quản lý riêng, hoặc việc vận
hành phải tuân thủ các điều kiện riêng nhất định phù hợp với đặc trưng của mỗi
loại và nhằm bảo đảm các mục tiêu quản lý nhất định.
Chú ý là mặc
dù, khoản 2 Điều 40 Dự thảo có đề cập đến “quy chế quản lý đô thị du lịch phù hợp với yêu cầu bảo vệ tài nguyên du lịch, cảnh
quan, môi trường và định hướng phát triển du lịch của đô thị” tuy nhiên quy định
này là chung chung, rất khó hình dung được là khi được công nhận đô thị du lịch
thì đô thị đó sẽ được quản lý như thế nào? Các hoạt động du lịch ở đô thị đó sẽ
được quản lý ra sao …
Sự thiếu rõ ràng các vấn đề trên khiến
cho chính sách khi phân định ra khu du lịch, tuyến du lịch, điểm du lịch và đô
thị du lịch trở nên mơ hồ, không hướng tới bất kỳ mục tiêu nào cụ thể và khiến
cho các quy định này ít ý nghĩa. Để đảm bảo tính minh bạch trong quy định, đề
nghị Ban soạn thảo sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng:
–
Giải
thích/định nghĩa rõ các khái niệm “khu du lịch”, “điểm du lịch”, “tuyến du lịch”,
“đô thị du lịch”;
–
Quy
định các chính sách quản lý tương ứng đối với khu du lịch, điểm du lịch, tuyến
du lịch, đô thị du lịch. Trường hợp không cần thiết hoặc không có căn cứ hợp lý
nào để áp dụng các cơ chế riêng cho từng loại thì đề nghị Ban soạn thảo bổ
sung quy định nêu rõ cơ chế chung áp dụng cho tất cả các loại địa điểm du lịch
này (khi đó, phân biệt các loại địa điểm du lịch như nêu ở trên chỉ có ý nghĩa
phân biệt về tính chất/quy mô của từng loại địa điểm du lịch mà thôi);
–
Về
một số nội dung chi tiết khác:
+ Liên quan đến
hồ sơ và thủ tục công nhận khu du lịch, điểm du lịch: Đề nghị giao cho Chính phủ
quy định thay vì Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, bởi theo quy định tại Điều
4.4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Bộ không được phép quy định về
thủ tục hành chính;
+ Về thẩm quyền
công nhận khu du lịch cấp quốc gia: Đề nghị quy định thẩm quyền công nhận khu
du lịch cấp quốc gia là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ thay vì Tổng cục Du
lịch (để đảm bảo có đủ điều kiện huy động nguồn lực phát triển khu du lịch cấp
này).
2. Điều kiện cấp giấy phép kinh doanh lữ hành
a. Về điều kiện “là doanh nghiệp đã đăng ký ngành nghề kinh doanh lữ hành”
Quy định này là chưa phù hợp với Luật
Doanh nghiệp năm 2014 vì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không còn ghi
ngành, nghề đăng ký kinh doanh. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “ngành
nghề kinh doanh lữ hành”. Góp ý tương tự đối với khoản 1 Điều 70 điều kiện kinh
doanh lưu trú du lịch.
b. Về điều kiện phải ký quỹ
Theo quy định tại khoản 6 Điều 41 Dự
thảo thì các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải thực hiện ký quỹ tại ngân
hàng nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Mức ký quỹ tùy thuộc vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp (kinh doanh lữ hành nội địa, quốc tế hay đối với
khách nước ngoài du lịch tại Việt Nam).
Yêu cầu về ký quỹ này được cho là nhằm
bảo đảm trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách du lịch. Mặc dù vậy, trên thực
tế, điều kiện kinh doanh này dường như không hợp lý và ít ý nghĩa bởi:
–
Bất hợp lý từ góc độ thị trường: Yêu cầu doanh nghiệp phải ký quỹ tại
ngân hàng đồng nghĩa với việc một khoản tiền của doanh nghiệp sẽ bị “đóng băng”
không sử dụng trong quá trình hoạt động. Trong kinh doanh nói chung, một khoản
tiền “chết” là điều rất không bình thường, không hợp lý đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào đặc biệt khi mục tiêu quản lý lại không đủ sức thuyết phục (xem thêm
phân tích phía dưới). Đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, có ít tiềm
lực về mặt tài chính nói riêng, việc buộc doanh nghiệp phải giữ khoản tiền “chết”
này từ khi gia nhập vào thị trường sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tính cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường;
–
Không cần thiết từ góc độ mục tiêu quản
lý: theo quy định tại
điểm a khoản 6 Điều 41 Dự thảo, có thể hiểu mục tiêu khi yêu cầu doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành phải ký quỹ là để “giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường
hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với
khách du lịch trong hoạt động kinh doanh lữ hành”. Tuy nhiên, mục tiêu này dường
như là không thật cần thiết bởi tương tự như bất kỳ giao dịch hợp đồng nào
khác, mối quan hệ giữa khách du lịch và công ty kinh doanh lữ hành sẽ được điều
chỉnh dựa trên các thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu công ty lữ hành không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ đối với khách du lịch thì đã có công cụ
của hệ thống pháp luật tư bảo vệ quyền lợi cho khách du lịch. Hơn nữa, cung cấp
dịch vụ du lịch cũng tương tự như hoạt động cung cấp các dịch vụ khác trên thị
trường và đối với các dịch vụ tương tự này thì để bảo vệ quyền lợi cho các bên
vẫn dựa chủ yếu bằng pháp luật dân sự. Không có căn cứ hay yếu tố nào cho thấy
vi phạm hợp đồng du lịch có nhiều rủi ro hơn các vi phạm hợp đồng khác tới mức
cần phải được bảo đảm bằng khoản ký quỹ trước của doanh nghiệp.
Mặt khác, nếu
có lập luận cho rằng quyền lợi của khách du lịch cần được bảo vệ hơn các khách
hàng của các dịch vụ khác nên cần phải yêu cầu trách nhiệm cao hơn của các
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, thì quy định ký quỹ cũng là chưa hợp lý. Bởi
vì, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải có trách nhiệm “mua bảo hiểm du lịch
cho khách du lịch trong nước trong thời gian thực hiện chương trình du lịch”
(điểm c khoản 2 Điều 49 Dự thảo). Như vậy, quyền lợi của khách du lịch cũng có
thể được bảo vệ thông qua hợp đồng bảo hiểm.
Từ những phân tích trên, đề nghị
Ban soạn thảo bỏ quy định các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải ký quỹ tại
ngân hàng, tức là bỏ khoản 6 Điều 41, khoản 4 Điều 42 Dự thảo.
c. Về điều kiện “có phương án kinh doanh, địa điểm, trang thiết bị phục vụ
kinh doanh lữ hành”
Theo quy định tại khoản 2 Điều 42 Dự
thảo thì một trong những điều kiện để cấp giấy phép kinh doanh lữ hành là “có
phương án kinh doanh, địa điểm, trang thiết bị phục vụ kinh doanh lữ hành”.
Quy định này vừa chưa hợp lý vừa thiếu
rõ ràng ở ít nhất các điểm sau đây:
–
Về
yêu cầu về “có phương án kinh doanh”: Quy định tại Dự thảo không làm rõ doanh
nghiệp chỉ cần “có phương án kinh doanh” là đủ hay cơ quan Nhà nước sẽ xem xét
nội dung phương án kinh doanh đó?
Nếu chỉ cần
có phương án kinh doanh là đủ thì điều kiện này liệu có ý nghĩa gì không?
–
Nếu
cần phải xem xét nội dung phương án kinh doanh thì Nhà nước sẽ quản lý gì với
doanh nghiệp thông qua việc xem xét “phương án kinh doanh” này? Cơ quan quản lý
nhà nước sẽ xem xét điều gì ở phương án kinh doanh của doanh nghiệp? Dựa vào
tiêu chí nào để xem xét? Nếu xem xét xong mà không đồng ý với phương án kinh
doanh của doanh nghiệp thì có cho phép doanh nghiệp hoạt động không? Theo quy định
của Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp có toàn quyền quyết định đối với các
phương án kinh doanh của mình, tùy thuộc vào chiến lược của mỗi công ty ở từng
giai đoạn khác nhau. Các cơ quan Nhà nước về nguyên tắc không có quyền can thiệp
vào việc quyết định các phương án kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, quy định
này có nhiều nguy cơ can thiệp vào quyền tự quyết của doanh nghiệp và chưa phù
hợp với tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Hơn nữa, ngay cả khi giải trình được sự
cần thiết của việc xem xét phương án kinh doanh của doanh nghiệp, liệu cơ quan
Nhà nước và các cán bộ Nhà nước (những chủ thể suy đoán là không làm kinh
doanh) có đủ năng lực để đánh giá một phương án kinh doanh là hiệu quả hay
không hiểu quả không?Về điều kiện “có địa điểm, trang thiết bị phục vụ kinh
doanh lữ hành”: Việc đơn giản là nêu tên các điều kiện này cho thấy quy định quá
chung chung và thiếu rõ ràng. Việc Dự thảo quy định giao toàn quyền cho Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định cụ thể về các điều kiện về địa điểm, trang
thiết bị này có lẽ là chưa phù hợp bởi (i) theo Luật Đầu tư thì các quy định về
điều kiện kinh doanh phải nằm trong văn bản cấp Chính phủ trở lên (chứ không phải
cấp Bộ), (ii) việc giao Cơ quan cấp dưới quy định chi tiết mà không có bất kỳ
tiêu chí mang tính nguyên tắc hay định hướng nào là trao thẩm quyền quá rộng về
điều kiện kinh doanh cho Cơ quan này.
Ngoài ra,
ngay cả với quy định rất chung này, một số điểm cũng chưa rõ ràng: Địa điểm ở
đây được hiểu là địa điểm kinh doanh hay là địa điểm đặt trụ sở chính. Nếu là địa
điểm đặt trụ sở chính thì không phải là yếu tố để cơ quan xem xét khi cấp phép
đối với hoạt động kinh doanh lữ hành – vốn là lĩnh vực mà địa điểm kinh doanh
và địa điểm đặt trụ sở chính nhiều trường hợp là không trùng khớp. Nếu là địa
điểm kinh doanh thì hoạt động kinh doanh lữ hành có thể diễn ra trong nhiều địa
điểm khác nhau và không cố định, không rõ sẽ xem xét đánh giá dựa vào yếu tố và
tiêu chí nào?
Từ những phân tích trên, đề nghị
Ban soạn thảo bỏ quy định về điều kiện “có phương án kinh doanh, địa điểm,
trang thiết bị phục vụ kinh doanh lữ hành” tức là bỏ khoản 2 Điều 42 Dự thảo.
Nếu có lý do thuyết phục giải trình về
sự cần thiết của việc doanh nghiệp kinh doanh lữ hành phải đáp ứng điều kiện về
địa điểm, trang thiết bị phục vụ thì đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các điều
kiện này hoặc quy định những nội dung mang tính nguyên tắc và trao quyền quy định
chi tiết trên cơ sở các nguyên tắc đó cho Chính phủ quy định thay vì Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
d. Về điều kiện “người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành phải tốt nghiệp
cao đẳng chuyên ngành du lịch trở lên và có giấy chứng nhận nghiệp vụ điều hành
du lịch do Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch cấp”
Quy định này vừa chưa rõ ràng vừa chưa hợp lý ở điểm:
–
Yêu
cầu đồng thời phải đáp ứng 2 điều kiện (tốt nghiệp cao đẳng chuyên ngành du lịch
và giấy chứng nhận nghiệp vụ) là quá khắt khe, bởi vì nghiệp vụ điều hành du lịch
có thể đã được đào tạo trong quá trình học ở cao đẳng, đại học;
–
Không
rõ cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền đào tạo nghiệp vụ điều hành du lịch?
Để đảm bảo tính hợp lý và minh bạch, đề nghị Ban soạn
thảo:
–
Đối
với điều kiện của người điều hành: chỉ cần đáp ứng 1 trong 2 điều kiện là hoặc
tốt nghiệp cao đẳng chuyên ngành du lịch trở lên hoặc có giấy chứng nhận nghiệp
vụ điều hành du lịch
–
Quy
định rõ về thẩm quyền đào tạo nghiệp vụ điều hành du lịch – khi thực hiện việc
này, đề nghị cân nhắc giao hoạt động đào tạo nghiệp vụ điều hành du lịch và cấp
chứng chỉ cho hiệp hội nghề nghiệp hoặc các trung tâm dạy nghề đủ năng lực để
thực hiện.
3. Trình tự, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh lữ hành
Khoản 2 Điều 43 Dự thảo quy định, đối
với giấy phép kinh doanh lữ hành loại B, C, D thì quy trình thủ tục sẽ theo 2
bước:
–
Sở
Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ thẩm định;
–
Tổng
cục Du lịch sẽ cấp phép dựa trên Hồ sơ thẩm định từ Sở gửi lên
Thời gian để cấp phép đối với giấy
phép loại B, C, D dài gấp đôi thời gian cấp giấy phép loại A (20 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ).
Quy trình cấp giấy phép loại B, C, D
được thiết kế tại Dự thảo là khá phức tạp và chưa hợp lý. Bởi vì:
–
Hồ
sơ đã qua cấp Sở thẩm định, đồng nghĩa với việc tất cả các yếu tố về sự phù hợp
của điều kiện kinh doanh đã được xem xét, thẩm định ở cấp này. Nhưng lại phải
chuyển lên cơ quan cấp trên xem xét có cấp hay không. Nếu như Tổng cục Du lịch
từ chối cấp phép trong khi Sở thẩm định hồ sơ phù hợp, thì ý nghĩa của việc Sở
thẩm định là gì? Sở có phải chịu trách nhiệm gì không? Tổng cục Du lịch sẽ phải
thẩm định lại hay là quay trở lại Sở thẩm định?
–
Nếu
như Tổng cục Du lịch tiếp tục thẩm định hồ sơ từ Sở thì việc hồ sơ phải trải
qua 2 cấp thẩm định là quá mức cần thiết, gây lãng phí về thời gian và nguồn
nhân lực của cơ quan quản lý nhà nước.
Để đảm bảo đơn giản hóa thủ tục hành
chính, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy trình cấp giấy phép B, C, D
theo hướng:
–
Hoặc
là doanh nghiệp gửi trực tiếp hồ sơ lên Tổng cục Du lịch và thời gian cấp phép
bằng thời gian cấp giấy phép loại A
–
Hoặc
xem xét trao quyền cho Sở cấp giấy phép của tất cả các loại
–
Hoặc
nếu có sự lo ngại năng lực của Sở chưa đủ thẩm định và cấp phép cho các giấy
phép loại B, C, D nhưng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp ở địa phương thực hiện
tại Sở thì đề nghị Sở chỉ là cơ quan tiếp nhận hồ sơ, đồng thời rút ngắn thời
gian xử lý hồ sơ ở Sở (từ 10 ngày làm việc xuống còn 2 ngày làm việc) Tổng cục
Du lịch sẽ thẩm định và cấp phép trong thời hạn quy định tính từ thời điểm nhận
hồ sơ từ Sở
4. Đổi giấy phép kinh doanh lữ hành (Điều 44)
a. Về trường hợp phải đổi giấy phép kinh doanh
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều
44 Dự thảo thì khi “điện thoại, fax, email, website của doanh nghiệp” thay đổi
thì doanh nghiệp phải đổi giấy phép kinh doanh. Quy định này có thể dẫn tới việc
doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện thay đổi giấy phép kinh doanh bởi đây
là những thông tin có thể thay đổi thường xuyên. Hơn nữa, các thông tin này
cũng không phải là thông tin cốt yếu có tính định danh doanh nghiệp bằng các
thông tin khác như tên, loại hình doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, vì vậy
không cần thiết phải cho vào nội dung của Giấy phép kinh doanh lữ hành và yêu cầu
doanh nghiệp phải thực hiện đổi lại giấy phép khi thay đổi các thông tin này.
Để giảm thiểu việc phải thực hiện quá
nhiều thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định khi thay đổi
“điện thoại, fax, email, website của doanh nghiệp” thì doanh nghiệp phải thực
hiện đổi giấy phép kinh doanh.
b. Về thời gian thực hiện thủ tục đổi giấy phép kinh doanh
Điểm c khoản 3 Điều 44 Dự thảo quy định,
thời hạn để cơ quan xem xét đổi giấy phép kinh doanh là 10 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Đối với các trường hợp đổi do thay đổi
tên doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp, tên người đại diện theo pháp luật, địa
chỉ trụ sở chính, thời gian để thẩm định hồ sơ và cấp phép là 10 ngày làm việc
là quá dài, bởi vì trong Hồ sơ các giấy tờ chứng minh khá rõ ràng và đã được
các cơ quan nhà nước khác trước đó thẩm định rồi (chẳng hạn, khi thay đổi tên
doanh nghiệp, tên loại hình doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính thì doanh nghiệp
đã phải thực hiện thay đổi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và cơ quan đăng
ký kinh doanh đã thẩm định hồ sơ trước đó để xem xét cấp lại giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp), do đó cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này không
cần thiết phải mất đến 10 ngày để xem xét cấp đổi hay không.
Hơn nữa, quy định về thời gian thực
hiện thủ tục đổi giấy phép kinh doanh tại Dự thảo cũng không quy định rõ, trong
khoảng thời gian bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ
sẽ trả lời là “hồ sơ hợp lệ hay không”, việc thiếu vắng về quy định này có thể
dẫn tới nguy cơ, các doanh nghiệp sẽ bị sách nhiễu, gây khó khăn trong quá
trình thực hiện thủ tục vì bị trả hồ sơ nhiều lần do không hợp lệ.
Để đảm bảo tính minh bạch và tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục, đề nghị Ban soạn thảo
quy định rõ khoảng thời gian bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan nhà
nước sẽ xem xét trả lời “hồ sơ hợp lệ hay không” (đề nghị là 01 ngày làm việc)
và rút ngắn thời gian xem xét, cấp đổi giấy phép xuống còn 03 ngày làm việc kể
từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ đối với các trường hợp cấp đổi giấy phép do thay
đổi tên người đại diện theo pháp luật, trụ sở chính, loại hình doanh nghiệp.
Góp ý tương tự đối với thời hạn cấp lại
giấy phép kinh doanh lữ hành quy định tại Điều 45 Dự thảo, đề nghị rút
ngắn thời gian xem xét và cấp lại xuống còn 03 ngày làm việc.
5. Về đình chỉ và thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành
a. Về đình chỉ giấy phép kinh doanh lữ hành
–
Khoản
1 Điều 47 Dự thảo quy định “Đình chỉ hoạt động kinh doanh lữ hành từ 06 tháng đối với doanh nghiệp”. Không
rõ thời gian đình chỉ là từ 06 tháng đến khoảng thời gian bao lâu? Việc không
quy định cụ thể về khoảng thời gian đình chỉ hoạt động kinh doanh lữ hành khiến
cho quy định trở nên thiếu rõ ràng và doanh nghiệp sẽ không nhận diện được chế
tài được áp dụng trong từng trường hợp vi phạm và có thể trao nhiều quyền quyết
định cho cán bộ thực thi (quyết định về thời hạn đình chỉ). Để hạn chế tình trạng
này, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể về thời hạn đình chỉ, hoặc bỏ
từ “từ” trong quy định tại khoản 1 Điều 47 Dự thảo, tức là “đình chỉ hoạt động
kinh doanh lữ hành 6 tháng đối với doanh nghiệp có một trong các hành vi vi phạm
sau:”;
–
Khoản
3 Điều 47 Dự thảo quy định “Trong thời gian bị đình chỉ quyền sử dụng giấy
phép, doanh nghiệp không được ký kết hợp đồng kinh doanh lữ hành và không được
tổ chức kinh doanh lữ hành”. Dự thảo lại không có quy định cho trường hợp,
trong thời hạn bị đình chỉ hoạt động, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có được
phép tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã ký kết trước đó hay không? Đề nghị
Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này để đảm bảo thuận lợi trong thực tế triển
khai;
–
Theo
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 47 Dự thảo thì “không duy trì một trong các điều
kiện cấp giấy phép lữ hành trong suốt quá trình kinh doanh” doanh nghiệp sẽ bị
đình chỉ hoạt động. Trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 48 Dự thảo lại quy định
“doanh nghiệp không đáp ứng một trong các điều kiện cấp giấy phép kinh doanh lữ
hành quy định tại Điều 42 của Luật này” sẽ bị thu hồi giấy phép kinh doanh. Hai
trường hợp này là tương đương nhau nhưng lại có hai biện pháp xử lý khác nhau.
Để đảm bảo tính thống nhất trong quy định, đề nghị Ban soạn thảo bỏ điểm
b khoản 1 Điều 48, tức là bỏ quy định “doanh nghiệp không đáp ứng một trong các
điều kiện cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quy định tại Điều 42 của Luật này” sẽ
bị thu hồi giấy phép, thay vào đó nên xếp trường hợp vào nhóm trường hợp bị đình
chỉ hoạt động có thời hạn.
b. Về thủ tục thu hồi giấy phép:
Theo quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 48 Dự thảo thì đối với trường hợp cơ quan cấp giấy phép
thông báo bằng văn bản về hành vi vi phạm và doanh nghiệp sẽ phải giải trình,
“sau 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn giải trình, doanh nghiệp không gửi
văn bản giải trình hoặc giải trình không phù hợp, cơ quan cấp giấy phép ban
hành quyết định thu hồi giấy phép cho doanh nghiệp”. Quy định này chưa rõ ràng ở
điểm: cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào tiêu chí nào để xác định nội dung
giải trình của doanh nghiệp là phù hợp hay không phù hợp. Việc thiếu rõ ràng
trong quy định này khiến cho quy trình thu hồi giấy phép trở nên kém minh bạch.
Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này.
c.
Về hoàn trả tiền ký quỹ (góp ý này chỉ nhìn dưới góc độ là
tính minh bạch của quy định):
Theo quy định tại đoạn cuối khoản 2 Điều 48 Dự thảo
thì doanh nghiệp sẽ được hoàn trả tiền ký quỹ sau khi hoàn thành trách nhiệm đối
với khách du lịch theo các hợp đồng đã ký kết, báo cáo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để hoàn trả. Quy
trình hoàn trả quy định tại Dự thảo chưa rõ ràng ở các thời hạn, chẳng hạn: cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét và có văn bản để doanh nghiệp được hoàn
trả tiền ký quỹ trong khoảng thời gian bao lâu kể từ ngày nhận được văn bản báo
cáo của doanh nghiệp. Điều này có thể khiến cho việc hoàn trả tiền ký quỹ bị
kéo dài và quyền lợi của doanh nghiệp sẽ không được đảm bảo. Đề nghị Ban soạn
thảo quy định rõ về quy trình này, nhất là vấn đề về mặt thời hạn.
6. Điều kiện kinh doanh đại lý lữ hành
Theo quy định tại Điều 52 thì điều kiện
để kinh doanh đại lý lữ hành là:
–
Có
đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền
–
Có
hợp đồng đại lý với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
Những điều kiện trên không phản ánh
tính đặc thù của hoạt động kinh doanh đại lý lữ hành so với các đại lý du lịch
khác và dường như là không cần thiết, bởi vì đây là hoạt động đương nhiên của đại
lý lữ hành (có hợp đồng đại lý với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành). Hơn nữa,
việc áp đặt điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề này dường như cũng không
phù hợp với mục tiêu nào quy định tại Điều 7.1 Luật Đầu tư (các ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện được ban hành nhằm mục tiêu vì “lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”)
. Do đó, việc quy định kinh doanh đại lý lữ hành là hoạt động kinh doanh có điều
kiện là chưa hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về điều kiện kinh
doanh đại lý lữ hành, tức là bỏ Điều 52 Dự thảo.
7. Về Hợp đồng lữ hành và Hợp đồng đại lý lữ hành
Điều 51 Dự thảo quy định “Hợp đồng lữ
hành phải được lập thành văn bản” (khoản 2). Điều này là chưa phù hợp bởi trong
thực tế việc giao kết hợp đồng lữ hành được thể hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau fax, email, thậm chí là bằng lời nói – đây là những hình thức phù hợp với
giao dịch được pháp luật dân sự và thương mại ghi nhận.
Vì vậy, việc Dự thảo yêu cầu hợp đồng
lữ hành phải lập thành văn bản là chưa phù hợp với thực tế và chưa thống nhất với
hệ thống pháp luật liên quan, do đó có thể gây khó khăn trong quá trình thực hiện.
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định tại khoản 2 Điều 51 Dự thảo.
Góp ý tương tự, đề nghị bỏ khoản
1 Điều 53 về yêu cầu hợp đồng đại lý lữ hành phải lập bằng văn bản.
8. Điều kiện hành nghề và cấp thẻ hướng dẫn du lịch
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều
62 Dự thảo quy định thì muốn hành nghề hướng dẫn du lịch phải đáp ứng điều kiện:
“Có
chứng chỉ nghề hướng dẫn viên du lịch quốc gia hoặc chứng nhận đạt tiêu chuẩn về
trình độ hướng dẫn du lịch do Tổng cục Du lịch cấp đối với người đề nghị cấp thẻ
hướng dẫn viên du lịch do Tổng cục Du lịch cấp đối với người đề nghị cấp thẻ hướng
dẫn viên du lịch nội địa và thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế; có chứng nhận đạt
tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch do Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch cấp đối với người đề nghị cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm”
“Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng và công bố nội dung ôn tập, tổ
chức thi và cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch
cho hướng dẫn viên du lịch nội địa và hướng dẫn viên du lịch quốc tế”
“Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với cơ
quan, tổ chức quản lý khu du lịch, điểm du lịch xây dựng và công bố nội dung ôn
tập theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tổ chức thi và cấp giấy
chứng nhận đạt tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch viên du lịch tại điểm”
Quy định trên vừa chưa rõ ràng vừa
chưa hợp lý ở các điểm:
–
Theo
quy định trên thì phải có 3 loại chứng chỉ/chứng nhận, đó là: chứng chỉ nghề hướng
dẫn viên du lịch quốc gia/chứng nhận đạt tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch
nội địa và thẻ hướng dẫn viên du lịch quốc tế và chứng nhận đạt tiêu chuẩn về
trình độ hướng dẫn du lịch do Sở cấp (đối với người đề nghị cấp thẻ hướng dẫn
viên du lịch tại điểm). Quy định trên không rõ, nếu một người hướng dẫn viên du
lịch tại điểm thì chỉ cần chứng chỉ hướng dẫn viên du lịch quốc gia/chứng nhận
đạt tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch hay là chỉ cần giấy chứng nhận do
Sở cấp hay là cần cả 2 loại chứng nhận này?
–
Việc
quy định có 3 loại chứng chỉ/chứng nhận trên khiến cho việc quản lý hướng dẫn
viên trở nên phức tạp và khó khăn. Bởi nếu mỗi điểm tại mỗi địa phương hướng dẫn
viên muốn hướng dẫn du lịch thì lại phải thực hiện xin cấp 1 giấy chứng nhận đạt
tiêu chuẩn hướng dẫn tại điểm du lịch cụ thể đó. Như vậy, nếu hướng dẫn ở nhiều
điểm khác nhau thì hướng dẫn viên lại phải có nhiều giấy chứng nhận tương ứng?
Điều này khiến các hướng dẫn viên phải thực hiện rất nhiều thủ tục hành chính
và khiến cho việc quản lý hướng dẫn viên thiếu thống nhất trong phạm vi cả nước.
Hơn nữa, nếu mỗi điểm du lịch cần giấy chứng nhận hướng
dẫn viên riêng thì chứng chỉ nghề hướng dẫn viên du lịch quốc gia/chứng nhận có
ý nghĩa gì (và những người chỉ có chứng chỉ này sẽ chỉ được hướng dẫn du lịch ở
những địa điểm không phải điểm du lịch/khu du lịch?)
–
Việc
cấp chứng chỉ nghề hướng dẫn viên du lịch quốc gia hoặc chứng nhận đạt tiêu chuẩn
về trình độ hướng dẫn du lịch không nhất thiết phải do cấp trung ương (Tổng cục
Du lịch) thực hiện. Nghề hướng dẫn viên du lịch là một nghề tương đối bình thường,
mức độ rủi ro với xã hội không quá cao (khác với nghề luật sư, y dược…). Trên
thực tế cũng có hàng ngàn lao động trong nghề này. Do đó, cần phân cấp xuống địa
phương để các tỉnh quản lý việc cấp chứng chỉ này để giảm tải công việc cấp
trung ương (cấp trung ương tập trung vào việc xây dựng chính sách, quản lý vĩ
mô, thay vì các hoạt động quản lý hành chính nhỏ này).
Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo:
–
Bỏ
quy định về việc cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch do
Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp đối với người đề nghị cấp
thẻ hướng dẫn viên du lịch tại điểm;
–
Tương
ứng bỏ quy định“Sở Du lịch hoặc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức quản lý khu du
lịch, điểm du lịch xây dựng và công bố nội dung ôn tập theo hướng dẫn của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tổ chức thi và cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
về trình độ hướng dẫn du lịch viên du lịch tại điểm”;
–
Đối
với việc cấp chứng chỉ nghề hướng dẫn viên du lịch quốc gia hoặc chứng nhận đạt
tiêu chuẩn về trình độ hướng dẫn du lịch: Đề nghị điều chỉnh thẩm quyền cấp từ
cấp trung ương (Tổng cục Du lịch) sang cấp tỉnh (các Sở).
Đối với hoạt
động đào tạo để cấp các chứng chỉ/giấy chứng nhận nói trên: Đề nghị Ban soạn
thảo cân nhắc giao cho các tổ chức xã hội thực hiện (chẳng hạn như các hiệp
hội nghề nghiệp) thay vì Nhà nước tự tổ chức thực hiện việc đào tạo này. Điều
này sẽ giảm tải được công việc, nguồn nhân lực và chi phí của Nhà nước bỏ ra,
trong khi đó các tổ chức xã hội nghề nghiệp có thể làm tốt được điều này. Nhà
nước chỉ nên thực hiện vai trò quản lý thông qua việc tổ chức thi và cấp chứng
chỉ thay vì thực hiện cả quy trình đào tạo, cấp chứng chỉ.
9. Về xếp hạng đối với các cơ sở lưu trú du lịch
Theo quy định tại từ Điều 69 – 71 thì
các cơ sở lưu trú du lịch phải được xếp hạng theo tiêu chuẩn chất lượng. Đây được
xem là một thủ tục bắt buộc nếu muốn triển khai hoạt động trong lĩnh vực này.
Liên quan đến quy định này, đề nghị
Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:
–
Việc
xếp hạng tiêu chuẩn chất lượng sẽ phân loại được chất lượng của các cơ sở lưu
trú du lịch. Tuy nhiên, việc phân loại các cơ sở lưu trú du lịch nhằm mục đích
quản lý gì (cơ sở lưu trú có phải duy trì tiêu chuẩn trong suốt thời gian hoạt
động không? Nếu không duy trì thì có bị xử phạt không hay chỉ bị xếp loại khác
hay là phải bị đóng cửa?)? Điều này chưa được thể hiện rõ trong Dự thảo. Vì vậy,
mục tiêu chính sách đối với quy định này lại thiếu rõ ràng.
–
Nếu
mục đích của việc xếp hạng này chỉ mang tính chất phân loại chất lượng dịch vụ
mà cơ sở dịch vụ đạt được thì nên có tính chất tự nguyện hơn là bắt buộc. Cơ sở
lưu trú nào muốn có sự chứng nhận của cơ quan nhà nước về chất lượng dịch vụ để
tạo niềm tin cho khách hàng thì sẽ thực hiện thủ tục này. Nếu không thì họ
không cần xếp hạng tiêu chuẩn (tương tự như nhiều nước du lịch phát triển, ví dụ
Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản… nhiều hình thức lưu trú của họ không xếp hạng
sao, đặc biệt là các nhà nghỉ bình dân)
–
Nếu
là để bảo đảm chất lượng tối thiểu của dịch vụ lưu trú thì nên quy định trực tiếp
về các tiêu chuẩn chất lượng này thay vì bắt buộc tất cả phải xếp hạng (tất cả
đều phải đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu nhưng không có nghĩa tất cả đều được xếp
hạng sao, bởi xếp hạng sao thường cao hơn ở mức nhất định so với tiêu chuẩn tối
thiểu). Cần lưu ý rằng các tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng lưu trú (ví dụ để
bảo đảm an toàn cháy nổ, trật tự…) đã được quy định khá nhiều trong các văn bản
pháp luật khác.
–
Nếu
là để tạo điều kiện cho khách hàng lựa chọn chất lượng dịch vụ thì điều này là
không cần thiết bởi thị trường sẽ quyết định chất lượng dịch vụ của cơ sở lưu
trú du lịch. Với số lượng gần 19.000 cơ sở lưu trú du lịch[1]
thì rõ ràng khách hàng sẽ có nhiều sự lựa chọn đối với cơ sở lưu trú du lịch.
Con số này dự đoán sẽ không ngừng tăng lên khi du lịch là một trong những thế mạnh
của nước ta và đang được đẩy mạnh phát triển trong thời gian gần đây. Như vậy,
muốn cạnh tranh tốt thì tự bản thân các cơ sở lưu trú du lịch phải cải thiện chất
lượng để thu hút khách du lịch. Do đó, việc yêu cầu bắt buộc phải xếp loại tiêu
chuẩn chất lượng dường như là không cần thiết.
–
Tính
khả thi: với số lượng lớn cơ sở lưu trú du lịch như vậy, việc yêu cầu phải đánh
giá và xếp hạng chất lượng dịch vụ sau thời điểm Luật này ban hành, liệu cơ
quan nhà nước có đủ nguồn lực để thực hiện không?
Từ những phân tích trên, đề nghị
Ban soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định về yêu cầu cơ sở lưu trú du lịch phải
thực hiện đăng ký xếp hạng theo tiêu chuẩn chất lượng từ hướng bắt buộc sang tự nguyện. Đối với hoạt động chứng nhận, xếp loại, nên xem xét cho
phép các tổ chức ngoài nhà nước tham gia vào hoạt động đánh giá này. Về bản chất
thì hoạt động này cũng tương tự như hoạt động chứng nhận sự phù hợp của các tổ
chức chứng nhận sự phù hợp đang thực hiện. Hoặc trong trường hợp có giải trình
thuyết phục về việc cơ quan nhà nước cần giữ chức năng chứng nhận này thì đề
nghị trong thành phần của tổ chức thẩm định cần có đại diện của Hiệp hội doanh
nghiệp trong lĩnh vực này tham gia.
Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Du lịch. Rất
mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Ngoài ra
gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho
Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.
Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
Nơi – – – – |
TL. CHỦ TỊCH KT. TRƯỞNG PHÓ TRƯỞNG
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thu Trang |
[1]
Theo số liệu thống kê trong Báo cáo đánh giá tác động – tài liệu kèm theo Dự thảo