VCCI góp ý đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật chuyển giao công nghệ 2006
Kính gửi: Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ,
Bộ Khoa học và Công nghệ
Trả lời Công văn số 518/BKHCN-ĐTG của
Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 19/02/2016 về việc đề nghị góp ý Dự thảo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chuyển giao công nghệ 2006
(sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),
trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:
1. Việc phân loại chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
Điều 1 của Dự thảo phân loại chuyển
giao công nghệ (CGCN) tại Việt Nam thành 3 nhóm: (1) chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam; (2) chuyển giao công nghệ trong nước; và (3) chuyển
giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài. Trong khi đó, Luật CGCN năm 2006 tại
các Khoản 9, 10 và 11 của Điều 3 đã giải thích các khái niệm: “CGVN tại Việt Nam”, “CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam” và “CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài”. Tuy
nhiên, Dự thảo không có quy định bỏ các khoản này. Như vậy, không có mối quan hệ giữa Điều 1 của Dự
thảo và các Khoản 9, 10 và 11 Điều 3 Luật CGCN 2006.
Cụ thể, Khoản 1.3 Điều 1 của Dự thảo
quy định trường hợp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam bao gồm: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam mua công nghệ của
tổ chức, cá nhân ở nước ngoài”. Trong khi đó, Khoản 10 Điều 3 Luật CGCN năm
2006 quy định: “Chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài chuyển
giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam”. Như
vậy cùng là hoạt động chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nhưng có sự không đồng nhất giữa Khoản 1.3
của Dự thảo và Khoản 10 Điều 3 của Luật CGCN 2006.
Đồng thời, Khoản 2.1 của Điều 1 Dự thảo
xác định khái niệm chuyển giao công nghệ trong nước là: “Chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức, cá nhân Việt Nam”. Trong
khi đó, Khoản 9, Điều 3 của Luật CGCN năm 2006 quy định: “Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam là việc chuyển giao công nghệ giữa
các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam”. Tương tự, Khoản
1.3 Điều 1 Dự thảo cũng sử dụng khái niệm:
“tổ chức, cá nhân Việt Nam” trong khi Luật CGCN năm 2006 sử dụng khái niệm “tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ
Việt Nam”. Như vậy, Dự thảo đã áp dụng nguyên tắc quốc tịch để xác định yếu
tố nước ngoài, còn Luật CGCN năm 2006 sử dụng nguyên tắc hoạt động trên lãnh thổ.
Dù điểm chung của hai phương pháp xác định yêu tố nước ngoài này đều dựa vào chủ
thể của việc chuyển giao, nhưng đây vẫn là hai phương pháp khác nhau và sẽ dẫn
tới việc áp dụng quản lý khác nhau. Hơn nữa, phương pháp phân loại mới này có thể vẫn chưa bao quát được hết các hoạt
động chuyển giao công nghệ của các công ty đa quốc gia đang có sự phát triển
mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Với sự thay đổi nói trên, đề nghị cơ quan soạn thảo cần có đánh giá tác động cụ thể của việc
thay đổi phương pháp phân loại trong Dự thảo này.
Theo định nghĩa, công nghệ là cách để
biến nguồn lực thành sản phẩm. Việt Nam là quốc gia có sẵn nhiều nguồn lực
nhưng không có đủ công nghệ tốt để biến thành sản phẩm có chất lượng cao. Do
đó, mục đích lớn nhất của Luật CGCN là làm sao cho chúng ta có nhiều hơn các
công nghệ để tận dụng tốt hơn các nguồn lực, thông qua việc Nhà nước “bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động
CGCN phục vụ nhu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế-xã hội của đất nước”
(Khoản 1 Điều 5 Luật CGCN 2006). Do đó, có thể phân loại chuyển giao công nghệ
dựa vào nơi hình thành và nơi sử dụng công nghệ. Ví dụ: Chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam là trường hợp chuyển giao công nghệ được tạo ra tại nước
ngoài để đưa vào sử dụng tại Việt Nam. Chuyển giao công nghệ trong nước là trường
hợp chuyển giao công nghệ được tạo ra ở Việt Nam và để sử dụng tại Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài là trường hợp chuyển giao công
nghệ được tạo ra tại Việt Nam hoặc đã được sử dụng tại Việt Nam để đưa vào sử dụng
tại nước ngoài.
Phương pháp phân loại này có thể giúp
hiện thực hóa mục đích chính sách mà Luật CGCN đã đặt ra. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc thêm phương án phân loại trên
để lựa chọn cách phân loại phù hợp, đảm bảo mục tiêu chính sách.
2. Chuyển giao công nghệ trong nước
Điều 1, Khoản 2.2 của Dự thảo quy định
trường hợp: “Chuyển giao kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất”. Ở đây không có yếu tố chủ
thể, cũng không có yếu tố lãnh thổ nên không rõ vì sao trường hợp này lại được
coi là chuyển giao công nghệ trong nước. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
làm rõ vấn đề này.
3. Không tính chi phí khi chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong
tập đoàn
Đoạn 2 Khoản 1.2 Điều 1 Dự thảo quy định
không được tính phí chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nếu doanh
nghiệp tại Việt Nam có 100% vốn của tập đoàn. Quy định này được cho rằng sẽ
giúp chống hành vi chuyển giá thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ. Theo phản
ánh của nhiều chuyên gia, hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia là một
trong những cơ hội tốt để thực hiện hành vi chuyển giá. Do đó, việc bổ sung các
biện pháp chống chuyển giá khi thực hiện hợp đồng này là hợp lý.
Tuy nhiên, biện pháp “không được tính phí chuyển giao công nghệ”
đưa ra tại Đoạn 2 Khoản 1.2 Điều 1 Dự thảo cũng cần cân nhắc. Về bản chất, dù
công ty mẹ ở nước ngoài có sở hữu 100% vốn của công ty con ở Việt Nam thì đây vẫn
là hai pháp nhân độc lập, có tài sản độc lập, với quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp lý độc lập. Giao dịch chuyển giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty con
cũng là điều bình thường. Nếu giao dịch này được khai báo đúng giá trị thì
không có vấn đề gì. Như vậy, quy định như trong Dự thảo sẽ là không công bằng đối
với các trường hợp khai báo đúng giá trị.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân
nhắc việc áp dụng quy định này. Theo đó, để hạn chế bất cập này có thể
thay thế bằng các biện pháp kiểm tra, thẩm định, áp giá trong quá trình thanh
tra, kiểm tra thuế để chống chuyển giá (như góp ý dưới đây).
4. Quy định chi tiết về nội dung, phương thức và điều kiện chuyển giao công
nghệ
Điều 1 Dự thảo giao Chính phủ quy định
cụ thể về: “nội dung và phương thức chuyển
giao công nghệ”. Khoản 19 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản 4 Điều 51 của Luật
CGCN năm 2006) lại giao Chính phủ quy định cụ thể về: “nội dung, phương thức, điều kiện chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, từ
Việt Nam ra nước ngoài, từ nước ngoài vào Việt Nam”. Đây là các quy định
chưa rõ ràng và có nguy cơ gây ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Cụ thể, quy định này chưa rõ ràng ở điểm:
Nội dung chuyển giao công nghệ là gì? Nội dung chuyển giao công nghệ
có phải là nội dung của các công nghệ được chuyển giao? Hay nội dung của hợp đồng
chuyển giao công nghệ?”. Vì thế, có thể có các cách hiểu sau:
–
Nếu
hiểu là nội dung của các công nghệ được chuyển giao thì đề nghị cơ quan soạn thảo
viết lại thành: danh mục các công nghệ được chuyển giao, hạn chế chuyển giao,
khuyến khích chuyển giao…
–
Nếu
hiểu là nội dung của hợp đồng chuyển giao công nghệ thì đã có Điều 15 của Luật
CGCN năm 2006. Do đó, việc giao cho Chính phủ quy định chi tiết nội dung của hợp
đồng chuyển giao công nghệ là điều không cần thiết. Nếu cần sửa đổi, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi trực tiếp vào Điều 15 của
Luật CGCN năm 2006.
Điều 18 của Luật CGCN năm 2006 đã quy
định về phương thức chuyển giao công nghệ bao gồm: (1) chuyển
giao tài liệu công nghệ; (2) đào tạo cho bên nhận công nghệ; (3) cử chuyên gia
tư vấn kỹ thuật; (4) phương thức khác do các bên thỏa thuận. Do đó, việc giao
cho Chính phủ quy định chi tiết các phương thức chuyển giao công nghệ là điều không
cần thiết. Nếu cần sửa đổi, đề nghị cơ
quan soạn thảo sửa đổi trực tiếp
vào Điều 18 của Luật CGCN năm 2006.
Điều kiện chuyển giao công nghệ có phải là các điều kiện cần đáp ứng
khi chuyển giao công nghệ trong Danh mục công nghệ chuyển giao có điều kiện?
Nói cách khác, nếu việc chuyển giao các công nghệ thuộc Danh mục này thì phải
được cơ quan nhà nước thẩm định dựa trên các điều kiện mà Chính phủ ban hành. Nếu
như vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định vào Điều 10 của
Luật CGCN năm 2006 như sau: “Chính phủ
quy định điều kiện để chuyển giao công nghệ đối với các công nghệ chuyển giao
có điều kiện.”
5. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động chuyển giao công
nghệ
Khoản 1 Điều 2 Dự thảo quy định về việc
“xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó bao
gồm cơ sở dữ liệu về chuyển giao công nghệ trong nước để hỗ trợ cho các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu chuyển giao, tiếp nhận công nghệ”.
Trên thực tế, nếu một công nghệ đã được
chuyển giao thì người có nhu cầu chuyển giao và người tiếp nhận công nghệ đã đạt
được mục đích. Việc thu thập thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghệ
đã được chuyển giao dường như có nhiều ý nghĩa đối với cơ quan quản lý nhà nước
để phục vụ công tác quản lý, mà ít có ý nghĩa đối với việc “hỗ trợ các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu chuyển giao, tiếp nhận công nghệ”. Điều mà các doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn là cơ sở dữ liệu về
các công nghệ đã được sáng tạo nhưng chưa được chuyển giao đưa vào sản xuất. Nếu
có một cơ sở dữ liệu về các công nghệ này thì chắc chắn sẽ tháo gỡ rất nhiều
cho thị trường công nghệ của Việt Nam.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo tập
trung nhiều hơn vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu về các công nghệ chưa
được đưa vào sản xuất thay vì cơ sở dữ liệu về hoạt động chuyển giao công nghệ
như tại dự thảo. Về bản chất, đây là hoạt động môi giới, xúc tiến thương mại về
chuyển giao công nghệ và đã được quy định dưới dạng dịch vụ chuyển giao công
nghệ tại Điều 28 của Luật CGCN năm 2006. Việc nhà nước đầu tư nguồn lực để cung
cấp dịch vụ này dưới dạng dịch vụ công có thể sẽ mang lại hiệu quả. Tuy nhiên,
để bảo đảm hiệu quả kinh tế, tránh lãng phí, trong bối cảnh ngân sách hiện nay,
đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh quy định theo hướng
xã hội hóa việc xây dựng một cơ sở dữ liệu như vậy, ví dụ, áp dụng hình thức đầu
tư đối tác công tư. Xã hội hóa việc xây dựng cơ sở dữ liệu này có thể sẽ mang lại
hiệu quả cao hơn trong bối cảnh ngân sách nhà nước đang gặp nhiều khó khăn như
hiện nay.
Tương tự như vậy, về nội dung phát
triển các tổ chức dịch vụ công về chuyển giao công nghệ theo các vùng kinh tế
trọng điểm cũng cần hết sức cân nhắc về nguồn lực đầu tư. Đề nghị cơ quan soạn thảo cân
nhắc phương án đầu tư các tổ chức dịch vụ công đó theo hình thức đối
tác công tư.
Ngoài ra, vấn đề công khai, minh bạch
và khả năng tiếp cận của người dân và doanh nghiệp đối với cơ sở dữ liệu về
CGCN chưa được quy định trong dự thảo. Trong khi, đây lại là nội dung được người
dân và doanh nghiệp quan tâm. Do đó, đề
nghị cơ quan soạn thảo bổ sung các quy định về việc công khai cơ sở dữ liệu
về CGCN.
6. Việc đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ, báo cáo hoạt động chuyển
giao công nghệ
Khoản 10 Điều 4 của Dự thảo (sửa đổi
Khoản 1 và 4 Điều 25 và 25 Luật CGCN năm 2006) tập trung vào việc yêu cầu đăng
ký bắt buộc đối với: (1) các hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào
Việt Nam; (2) hợp đồng chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; (3) hợp
đồng chuyển giao công nghệ trong nước có giá trị hợp đồng từ 1 tỷ đồng trở lên.
Sau khi đăng ký và đi vào sử dụng, các bên phải báo cáo thực hiện hợp đồng gửi
đến cơ quan quản lý nhà nước.
Theo Tờ trình (tại trang 5, vấn đề thứ
tư) lý giải quy định này là do: “các cơ
quan quản lý nhà nước rất khó khăn để thu thập dữ liệu công nghệ chuyển giao”
và “hầu hết các chi cục thuế không tách
được chi phí đối với chuyển giao công nghệ và chi phí mua máy móc, thiết bị.”
Như vậy, quy định tại Khoản Điều 4 Dự thảo có hai mục tiêu chính sách: (1) nhằm
thu thập dữ liệu công nghệ chuyển giao; và (2) tách chi phí chuyển giao công
nghệ và chi phí mua máy móc, thiết bị khi làm nghĩa vụ thuế.
Mục tiêu chính sách thứ nhất, nếu như
vậy, là chưa thực sự cần thiết vì những lý do sau:
–
Nếu
dữ liệu này được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chuyển giao công
nghệ thì như góp ý đối với Khoản 1 Điều 2 Dự thảo, đây không phải là nội dung
thiết thực. Thông tin mà xã hội cần là về các công nghệ cần được chuyển giao,
nhằm sử dụng các công nghệ đó, chứ không phải là thông tin về chuyển giao công
nghệ.
–
Nếu
dữ liệu này được sử dụng chỉ với mục đích báo cáo của cơ quan nhà nước mà không
có tác dụng quay trở lại giúp ích xã hội thì không thực sự cần thiết.
Cần lưu ý rằng, dù một công nghệ có
được sáng tạo, chuyển giao, sử dụng thì vẫn là quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu,
sử dụng công nghệ, không phải là tài sản quốc gia. Việc yêu cầu các chủ thể tư
nhân phải đăng ký (và được sự đồng ý của cơ quan nhà nước) về một giao dịch dân
sự là sự can thiệp hành chính đến quyền tự do hợp đồng và bảo mật hợp đồng của
các bên.
Nhằm thu thập thông tin về chuyển
giao công nghệ, Nhà nước nên sử dụng các biện pháp mang tính khuyến khích hơn
là bắt buộc. Ví dụ, ưu tiên tiếp cận cơ sở dữ liệu về chuyển giao công nghệ đối
với doanh nghiệp nào có thông báo đến cơ quan nhà nước về hoạt động chuyển giao
công nghệ, báo cáo thường xuyên về việc thực hiện hợp đồng; hoặc các biện pháp
ưu tiên, ưu đãi khác phù hợp.
Đối với mục tiêu chính sách thứ hai,
xác định nghĩa vụ thuế của các chủ thể, thì có thể được thực hiện bằng giải
pháp thay thế. Khi các cơ quan thuế gặp khó khăn hoặc có nghi vấn về việc tách
chi phí mua bán máy móc thiết bị và chi phí chuyển giao công nghệ thì có thể
trưng cầu định giá từ phía cơ quan quản lý công nghệ hoặc các tổ chức định giá
công nghệ độc lập do nhà nước cấp phép. Nếu có hiện tượng trốn thuế, chuyển giá
thì áp dụng các biện pháp truy thu, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định hiện
hành. Khoản 2 Điều 44 Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định: “Trong trường hợp cần thiết để đảm bảo thực hiện quản lý nhà nước về
khoa học, công nghệ hoặc để xác định căn cứ tính thuế, cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền yêu cầu thực hiện giám định độc lập chất lượng và giá trị của máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ.” Như
vậy, chỉ cần các cơ quan nhà nước thực thi đầy đủ các quy định đã có thì đã giải
quyết được vấn đề này mà không cần phải sửa đổi Luật.
Nếu công nghệ được chuyển giao có
nguy cơ gây tác động xấu đến môi trường, xã hội thì đã được liệt kê trong danh
mục các công nghệ hạn chế chuyển giao (hoặc gọi cách khác là công nghệ chuyển
giao có điều kiện). Còn các công nghệ khác, không có nguy cơ gây tác động xấu đến
môi trường, xã hội thì không cần thiết phải đăng ký và được sự đồng ý của cơ
quan nhà nước.
Hơn nữa, quy định yêu cầu đăng ký bắt
buộc và đại trà đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ là không khả thi.
Theo định nghĩa, công nghệ chỉ là cách thức để biến nguồn lực thành sản phẩm,
như vậy thì công thức để chế biến một món ăn cũng có thể được coi là công nghệ.
Theo quy định này, nếu công thức chế biến món ăn được chuyển giao từ một đầu bếp,
nhà hàng nước ngoài cho một bà nội trợ, đầu bếp, nhà hàng Việt Nam cũng phải thực
hiện thủ tục đăng ký, và nếu không đăng ký thì có nguy cơ bị xử phạt. Nếu hiểu
như vậy thì các trường hợp vi phạm sẽ là phổ biến, trong khi nhà nước không cần
can thiệp ở điểm này.
Bên cạnh đó, chi phí thủ tục hành
chính cho việc thực hiện thủ tục đăng ký này rất lớn. Các doanh nghiệp sẽ phải
mất thời gian chờ đợi mà chưa thể thực hiện hợp đồng, gặp rủi ro khi hợp đồng bị
từ chối đăng ký, đó là chưa kể đến việc không có tiêu chí pháp lý rõ ràng cho
việc chấp thuận/từ chối đăng ký có thể dẫn đến nguy cơ nhũng nhiễu. Nếu các chi
phí này chỉ để đánh đổi lại việc cơ quan nhà nước có dữ liệu về chuyển giao
công nghệ thì sẽ là thiệt hại lớn cho xã hội.
VCCI cho rằng cách tiếp cận cũ của Luật
Chuyển giao công nghệ 2006 là phù hợp. Theo đó, các biện pháp hành chính chỉ áp
dụng đối với 4 loại đối tượng hợp đồng chuyển giao công nghệ, gồm:
(1) Hợp đồng chuyển giao công nghệ mà
công nghệ đó được tạo ra bằng ngân sách nhà nước
(2) Hợp đồng chuyển giao công nghệ mà các
cá nhân, tổ chức muốn có sự hỗ trợ từ các quỹ của nhà nước
(3) Hợp đồng chuyển giao công nghệ mà
công nghệ đó có nguy cơ gây tác động xấu đến môi trường, sức khỏe, xã hội
(4) Hợp đồng chuyển giao công nghệ mà Việt
Nam không muốn chuyển ra nước ngoài.
Đây đều là các trường hợp liên quan đến
tài sản nhà nước, cần có sự hỗ trợ của nhà nước, hoặc ảnh hưởng đến các lợi ích
công cộng, lợi ích quốc gia nên mới cần có sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ
hợp đồng. Việc mở rộng phạm vi áp dụng
các biện pháp hành chính đối với một quan hệ dân sự không có ảnh hưởng đến Nhà
nước hay lợi ích công cộng là không phù hợp.
Cần lưu ý rằng, việc yêu cầu thêm các
nghĩa vụ về đăng ký hợp đồng hay báo cáo việc thực hiện hợp đồng sẽ là rào cản,
khiến các bên ngần ngại trong việc chuyển giao công nghệ, từ đó khiến thị trường
chuyển giao công nghệ của Việt Nam đã yếu kém lại càng khó phát triển. Theo phản
ánh của một số doanh nghiệp đến VCCI, nhiều trường hợp doanh nghiệp rất ngần ngại
đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ mặc dù có cơ hội được hưởng ưu đãi với
lý do không bảo đảm bí mật công nghệ. Mặc dù Điều 26 của Luật CGCN năm 2006 đã
có quy định về việc bảo mật thông tin, song cơ chế bảo đảm thực thi quy định
này không được xác định rõ ràng. Trường hợp bị lộ bí mật, doanh nghiệp cũng
không thể đòi bồi thường từ phía cơ quan nhà nước do không có đủ chứng cứ.
Với các lý do trên, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định về đăng ký chuyển
giao công nghệ bắt buộc tại Điều 25 của Dự thảo.
7.
Kinh doanh dịch vụ chuyển giao công
nghệ
Khoản 11 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản
2 và 3 Điều 28 Luật CGCN năm 2006) quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ phải có Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ” và “Việc thành lập và hoạt động của tổ chức dịch
vụ chuyển giao công nghệ do Chính phủ quy định” Như vậy, cả 6 loại hình dịch
vụ quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật CGCN năm 2006 (từ a đến e) đều cần có Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, tại
mục 218, Phụ lục IV của Luật Đầu tư chỉ xác định: “Kinh doanh dịch vụ đánh giá, định giá và giám định công nghệ”
(tương ứng với Điểm c, d và đ Khoản 1 Điều 28 Luật CGCN).
Khoản 1, Điều 7 của Luật Đầu tư
(tương ứng với Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp) xác định các lý do để ban hành
điều kiện kinh doanh bao gồm “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Trên thực tế, VCCI
nhận thấy trong 6 loại dịch vụ chuyển giao công nghệ, chỉ các dịch vụ về đánh
giá, định giá và giám định công nghệ là cần có các quy định về điều kiện để bảo
đảm chất lượng dịch vụ. Lý do là kết quả hành nghề của các dịch vụ này (chứng
thư định giá, chứng thư giám định hay kết quả đánh giá) có ảnh hưởng đến quyền
lợi của bên thứ 3, có nguy cơ xâm phạm lợi ích công cộng, trật tự an toàn xã hội.
Còn các dịch vụ khác như môi giới, tư vấn và xúc tiến chuyển giao công nghệ thì
chỉ là mối quan hệ dân sự hai bên, được giải quyết bằng hợp đồng và trách nhiệm
dân sự, không có nguy cơ ảnh hưởng đến lợi ích công cộng nên không cần các công
cụ hành chính can thiệp.
Ví dụ, tổ chức A có nhiều công nghệ
và muốn thương mại hóa. Thay vì tự mình tìm kiếm người mua, tổ chức A thuê một
công ty tư vấn B giúp tìm kiếm khách hàng C. Như vậy, B đã thực hiện dịch vụ
môi giới chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, quan hệ mua bán vẫn là quan hệ giữa
A và C, B chỉ làm nhiệm vụ kết nối 2 bên và hưởng hoa hồng, B có thể là bất kỳ
cá nhân, tổ chức nào và không cần thiết phải có điều kiện kinh doanh. Tương tự,
các dịch vụ về tư vấn, xúc tiến chuyển giao công nghệ cũng không có nguy cơ gây
nguy hiểm cho xã hội nên không cần thiết phải hạn chế quyền tự do kinh doanh.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo chỉ
quy định điều kiện đối với các dịch vụ về đánh giá, định giá và thẩm định
công nghệ, các các dịch vụ khác thì không cần.
Đối với dịch vụ định giá công nghệ,
hiện nay Luật Giá đã quy định về dịch vụ thẩm định giá. Để tránh chồng chéo giữa
các quy định pháp luật, đề nghị cơ quan
soạn thảo làm rõ mối quan hệ
giữa dịch vụ định giá công nghệ và dịch vụ thẩm định giá. Định giá công nghệ có
phải là một dạng thẩm định giá khi mà đối tượng là công nghệ? Liệu người đã có
chứng chỉ hành nghề thẩm định giá có được phép định giá công nghệ? Liệu chứng
thư thẩm định giá về công nghệ có tác dụng gì?
Khoản 11 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản
3 Điều 28 Luật CGCN năm 2006) quy định: “Việc
thành lập và hoạt động của tổ chức dịch
vụ chuyển giao công nghệ do Chính phủ quy định.” Nếu tổ chức cung cấp dịch
vụ chuyển giao công nghệ là một doanh nghiệp thì quy định này không phù hợp với
Luật Doanh nghiệp. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tách các nội dung về
thành lập doanh nghiệp ra khỏi các nội dung về hoạt động của doanh nghiệp. Theo
đó, doanh nghiệp vẫn được phép thành lập mà chưa cần đáp ứng các quy định về điều
kiện kinh doanh. Chỉ khi nào doanh nghiệp bắt đầu kinh doanh một lĩnh vực có điều
kiện thì mới cần đáp ứng các điều kiện đó. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ
nội dung về thành lập tại Khoản 3 Điều 28 Luật CGCN năm 2006.
8. Bảo lãnh tín dụng bằng công nghệ
Khoản 4 Điều 2 Dự thảo xác định sẽ
ban hành quy định về bảo lãnh tín dụng bằng công nghệ. Bộ luật dân sự năm 2005 xác
định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên
bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Bảo lãnh tín dụng là việc một bên đứng
ra cam kết trả nợ cho ngân hàng nếu bên đi vay không thể trả nợ khi đến hạn.
Như vậy, không rõ “bảo lãnh tín dụng bằng
công nghệ” nên được hiểu như thế nào?
Hơn nữa, bảo lãnh cũng chỉ là một trong
9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tại sao lại cần có quy định riêng về bảo
lãnh tín dụng bằng công nghệ mà lại không có các quy định về việc sử dụng công
nghệ để thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác? Nếu coi công nghệ là một dạng tài sản
thì việc sử dụng công nghệ để thực hiện các nghĩa vụ dân sự là hoàn toàn bình
thường, phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo giải
thích rõ những nội dung chưa rõ ràng nêu trên hoặc bỏ quy định về “bảo lãnh tín dụng bằng công nghệ” trong
Dự thảo.
9. Nghĩa vụ báo cáo
Khoản 3 Điều 3 Dự thảo quy định về
nghĩa vụ báo cáo hoạt động chuyển giao công nghệ của tổ chức, cá nhân. Khoản 10
Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản 4 Điều 25 Luật CGCN năm 2006) quy định về nghĩa vụ
lập báo cáo thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ của năm trước đối với hợp
đồng chuyển giao công nghệ đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký. Trong khi đó,
Luật CGCN năm 2006 chỉ quy định nghĩa vụ báo cáo theo cơ chế của Luật Thống kê.
Đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định
về nghĩa vụ báo cáo này vì các lý do sau đây:
–
Vượt quá phạm vi điều chỉnh của Luật Chuyển giao công nghệ. Luật này chỉ điều chỉnh hoạt động
chuyển giao công nghệ, còn sau khi đã chuyển giao xong thì thuộc về giai đoạn sử
dụng công nghệ.
–
Việc báo cáo là không cần thiết. Nhu cầu của nhà nước chỉ dừng lại ở việc nắm bắt
thông tin về hoạt động chuyển giao công nghệ và việc này có thể được thực hiện
thông qua công cụ pháp luật về thống kê, không cần thiết phải đặt thêm nghĩa vụ
báo cáo.
–
Việc báo cáo là không hợp lý. Như đã phân tích ở trên, các hợp đồng chuyển giao công nghệ
không thuộc 4 trường hợp được liệt kê tại mục 8 của công văn này là các quan hệ
dân sự thuần túy. Việc yêu cầu các bên trong một hợp đồng dân sự thuần túy phải
báo cáo về việc thực hiện hợp đồng là không hợp lý.
–
Việc báo cáo sẽ làm tăng thủ tục hành chính, gây tốn kém về thời gian, chi phí
tuân thủ cho doanh nghiệp mà không đem lại hiệu quả xã hội rõ ràng nào.
10. Phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng
Khoản 6 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản
2 Điều 12 Luật CGCN năm 2006) quy định về hình thức chuyển giao công nghệ dưới
dạng phần chuyển giao công nghệ trong dự án hoặc hợp đồng sau: (a) Dự án đầu
tư; (b)Hợp đồng thiết kế – cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng
công trình (Hợp đồng EPC); (c) Hợp đồng
nhượng quyền thương mại; (d) Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; (đ)
Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ. Như vậy, được
hiểu rằng chỉ phần chuyển giao công nghệ trong các hợp đồng này mới được chấp
nhận, phần chuyển giao công nghệ trong các dự án, hợp đồng khác sẽ không được
chấp nhận. Trong khi đó, các dạng hợp đồng là vô cùng đa dạng và hoàn toàn có
thể phát sinh nội dung về chuyển giao công nghệ, ví dụ:
–
Hợp
đồng thuê chuyên gia tư vấn có nội dung chuyển giao công nghệ
–
Hợp
đồng lao động với lao động trình độ cao có nội dung chuyển giao công nghệ
–
Hợp
đồng trước đăng ký doanh nghiệp (theo Điều 19 Luật Doanh nghiệp) có nội dung về
chuyển giao công nghệ
–
Hợp
đồng tài trợ mà một tổ chức nước ngoài chuyển giao công nghệ phía Việt Nam để
thực hiện các hoạt động xã hội. Ví dụ, công nghệ xây dựng và vận hành hầm khí
sinh học cho nông dân, công nghệ xây nhà ở nông thôn giúp ứng phó với biến đổi
khí hậu…
Để tránh tạo rào cản không đáng có đối
với hoạt động chuyển giao công nghệ, đề
nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi
quy định theo hướng không quy định cứng giới hạn các loại hợp đồng như
hiện nay bằng việc bổ sung thêm
một điểm vào Điều 12.2 với nội dung “và
các loại dự án, hợp đồng khác phù hợp với pháp luật Việt Nam”.
11. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ
Khoản 8 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản
1 và 2 Điều 19 Luật CGCN năm 2006) quy định đối với hợp đồng chuyển giao công
nghệ thuộc diện phải cấp phép/đăng ký, thời điểm cấp giấy phép/giấy chứng nhận
đăng ký được sử dụng để các bên xác lập quyền đối với công nghệ được chuyển
giao. Khoản 9 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi Khoản 4 Điều 23 Luật CGCN năm 2006) quy định
nghĩa vụ xin cấp phép hợp đồng chuyển giao công nghệ trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày hai bên ký kết chuyển giao công nghệ.
Tuy nhiên, cơ chế xử lý khi các bên
không thực hiện nghĩa vụ này chưa được quy định rõ ràng. Nếu các bên vẫn giao kết
hợp đồng chuyển giao công nghệ mà không đăng ký/xin phép, vẫn thực hiện hợp đồng
như bình thường thì hợp đồng có vô hiệu không? Theo nguyên tắc xử lý hợp đồng
vô hiệu thì các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp công nghệ đã được chuyển giao thì không thể trả lại. Do đó, việc yêu cầu hợp đồng vô hiệu là không khả
thi.
Về vấn đề này, VCCI cho rằng tác động
xấu của các công nghệ chuyển giao có điều kiện nằm ở việc sử dụng công nghệ đó,
chứ không nằm ở giai đoạn chuyển giao. Cơ quan nhà nước chỉ cần ngăn cản việc sử
dụng các công nghệ ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, sức khỏe con người, giá trị
văn hóa hay tài nguyên môi trường. Do đó, đề
nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi, bổ
sung quy định xác định rõ hướng xử lý khi các bên không làm thủ tục xin
phép chuyển giao công nghệ, cụ thể như sau:
–
Hợp
đồng chuyển giao công nghệ có hiệu lực từ thời điểm giao kết hoặc các bên thỏa
thuận.
–
Việc
sử dụng công nghệ được chuyển giao thuộc diện công nghệ chuyển giao có điều kiện
chỉ được thực hiện sau khi được cấp phép.
–
Nếu
các bên đưa công nghệ vào sử dụng trước khi xin cấp phép thì bị xử lý trách nhiệm
pháp lý (hành chính hoặc hình sự, tùy trường hợp).
–
Khi
bị xử phạt, các bên phải tạm dừng sử dụng công nghệ đó và phải làm thủ tục xin
cấp phép.
12. Một số vấn đề về diễn đạt, kỹ thuật lập pháp
a. Di chuyển công nghệ
Đoạn 2 Khoản 1.2 Điều 1 Dự thảo có sử
dụng cụm từ “công nghệ di chuyển”.
Không rõ thuật ngữ “di chuyển” ở đây
được hiểu theo nghĩa nào? Liệu có phải là chuyển giao không? Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi lại cho rõ nghĩa.
b. Khái niệm tập đoàn
Tập đoàn là khái niệm sử dụng để chỉ
một nhóm công ty có quan hệ ở một mức độ nhất định với nhau về mặt quản trị
(xác định cụ thể mức độ này tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia). Tập
đoàn không phải là một công ty, tập đoàn không có tư cách pháp nhân. Do đó, việc
phân biệt giữa “Tập đoàn” và “các doanh nghiệp trong tập đoàn” như tại
Điều 1, Khoản 1.2, đoạn 2 Dự thảo rất khó hiểu. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa
đổi cho phù hợp với với khái niệm pháp lý về tập đoàn.
c. Tính phí chuyển giao công nghệ
Điều 1, Khoản 1.2, đoạn 2 Dự thảo có
đoạn “không được tính phí chuyển giao
công nghệ”. Theo suy đoán của VCCI thì quy định này có nghĩa là “không được tính chi phí được trừ khi xác định
thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp”. Đề nghị cơ quan soạn thảo thay
đổi cách diễn đạt cho đúng với kỹ thuật lập pháp.
d. Mua công nghệ
Khoản 1.3 Điều 1 Dự thảo quy định trường
hợp: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam mua công
nghệ của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài”. Việc sử dụng từ “mua” không phản ánh hết được các trường
hợp, vì chuyển giao công nghệ có thể bao gồm cả tặng cho, trao đổi… Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa từ “mua” thành từ “nhận chuyển
nhượng”.
e. Công nghệ được tạo ra từ nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ
Khoản 1 Điều 3 Dự thảo sử dụng khái
niệm “công nghệ được tạo ra từ nguồn ngân
sách nhà nước hỗ trợ”. Tuy nhiên, Luật CGCN năm 2006 tại Điều 40 lại sử dụng
thuật ngữ “công nghệ được tạo ra bằng
ngân sách nhà nước”. Đề nghị cơ quan
soạn thảo làm rõ hai khái
niệm này là một hay khác nhau? Nếu theo ngôn ngữ, khái niệm tại Điều 40 của Luật
CGCN dùng để chỉ các công nghệ được tạo ra bằng 100% ngân sách nhà nước, còn
khái niệm của Dự thảo dùng để chỉ những công nghệ mà ngân sách nhà nước có hỗ
trợ một phần kinh phí để tạo ra.
f. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ
Đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ
khái niệm Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ là:
(1) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có ghi ngành nghề dịch vụ chuyển giao
công nghệ hay (2) một loại giấy riêng để chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch
vụ chuyển giao công nghệ?
Nếu là loại (1) thì không cần thiết
vì theo quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2014, các Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh không còn ghi ngành nghề. Nếu là loại (2) thì đề nghị đổi tên thành
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ để tránh
nhầm lẫn.
g. Cá nhân kinh doanh dịch vụ chuyển giao công nghệ
Tại Khoản 3 Điều 28 Luật CGCN năm
2006 chỉ quy định về “thành lập và hoạt động
của tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ” trong khi tại Khoản 2 Điều 28 lại
cho phép cả cá nhân kinh doanh dịch vụ này. Vậy có được hiểu rằng cá nhân thì
không cần đáp ứng quy định của Chính phủ. Đề
nghị cơ quan soạn thảo làm rõ vấn
đề này.
h. Giấy chứng nhận đầu tư
Đoạn 2 Khoản 4 Điều 4 Dự thảo (sửa đổi
Điều 10 Luật CGCN năm 2006) quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ có trách nhiệm thẩm định và có ý kiến về công nghệ đối với các dự án
đầu tư sử dụng công nghệ thuộc Danh mục công nghệ chuyển giao có điều kiện trước
khi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư.” Tuy
nhiên, hiện nay, Luật Đầu tư 2014 chỉ quy định thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư đối với các dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, các dự án của nhà
đầu tư trong nước hiện nay không cần làm thủ tục đăng ký đầu tư. Điểm b Khoản 1
Điều 32 Luật Đầu tư hiện nay quy định về thủ tục “quyết định chủ trương đầu
tư”. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa lại cho chính xác.
Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật chuyển giao công nghệ năm 2006. Rất mong quý Cơ quan
soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Ngoài ra
gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho
Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.
Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.