VCCI góp ý Dự thảo Thông tư Quy định về thử nghiệm, khảo nghiệm và kiểm tra chất lượng thuốc thú y

Thứ Tư 15:50 14-01-2015
Vui lòng theo dõi toàn văn dự thảo tại link dưới đây:http://vibonline.com.vn/Duthao/1643/Du-thao-Thong-tu-Quy-dinh-ve-thu-nghiem-khao-nghiem-va-kiem-tra-chat-luong-thuoc-thu-y.aspx

Kính gửi: Cục Thú y – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

            Trả lời Công văn số 2262/TY-QLT ngày 05/12/2014 của Cục Thú y về việc góp ý Dự thảo Thông tư quy định về thử nghiệm, khảo nghiệm và kiểm tra chất lượng thuốc thú y (sau đây gọi là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) sau khi tham vấn ý kiến của các doanh nghiệp và chuyên gia, có một số ý kiến như sau:

1.      Quan điểm chung về việc kiểm tra chất lượng và thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y

Thử nghiệm, khảo nghiệm và kiểm tra chất lượng thuốc thú y là hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng thuốc thú y cung ứng ra thị trường, qua đó bảo vệ sức khỏe động vật và sự ổn định, an toàn của hoạt động sản xuất chăn nuôi. Mặc dù vậy, để khuyến khích hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc thú y, gia tăng cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, thúc đẩy tự do kinh doanh, từ đó tạo điều kiện giảm giá thuốc thú y, nâng cao hiệu quả sản xuất chăn nuôi, mức độ kiểm soát thuốc thú y cần được thiết kế tương ứng với nguy cơ rủi ro cụ thể, không vượt quá mức cần thiết gây cản trở cho việc lưu thông bình thường và cạnh tranh của sản phẩm này trên thị trường.

Do đó, việc xây dựng các quy định về vấn đề này tại Dự thảo cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

-         Tính thống nhất của các quy định: Các quy định của Dự thảo là quy phạm ở cấp Thông tư, vì vậy cần phù hợp với các quy định liên quan ở cấp cao hơn. Đặc biệt, cần chú ý 02 văn bản quan trọng: (1) Pháp lệnh Thú y (hiện đang được sửa đổi, điều chỉnh nâng lên thành Luật, với những định hướng điều chỉnh của văn bản luật này dù chưa được thông qua nhưng rất cần chú ý trong quá trình soạn thảo Dự thảo này); và (2) Luật Doanh nghiệp 2005 (cũng như Luật Đầu tư 2014) theo đó văn bản cấp Bộ (như Dự thảo này) không được phép quy định về điều kiện kinh doanh (mà chỉ được quy định chi tiết về các nội dung hướng dẫn những điều kiện kinh doanh đã có trong các văn bản cấp trên).

-         Quản lý rủi ro: Việc kiểm soát chỉ thực hiện đối với các trường hợp xác định có rủi ro: căn cứ để kiểm soát, nội dung và hình thức kiểm soát chỉ được dựa vào nguyên tắc quản lý rủi ro; rủi ro cao thì kiểm soát chặt chẽ hơn, rủi ro thấp thì kiểm soát lỏng hơn; tập trung kiểm soát và xử lý những hành vi có nguy cơ lớn gây thiệt hại cho xã hội.

-         Minh bạch: Việc kiểm soát cần được thực hiện một cách rõ ràng, cả người kiểm soát và người bị kiểm soát phải được thông tin sớm và đầy đủ về việc kiểm soát.

-         Đơn giản hóa thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính cần tránh phiền hà cho người bị kiểm soát; không tiến hành kiểm soát các thông tin mà cơ quan nhà nước đã biết, không yêu cầu cung cấp các tài liệu mà cơ quan nhà nước đã có. Tập trung vào hậu kiểm và xử lý nghiêm các vi phạm hơn là cơ chế tiền kiểm, tránh việc quản lý theo kiểu “một người đau bụng bắt cả làng uống thuốc”, chỉ vì một vài trường hợp vi phạm mà đặt ra nghĩa vụ cho tất cả.

2.      Các ý kiến cụ thể

Với cách tiếp cận trên, VCCI có một số kiến nghị cụ thể đối với Dự thảo như sau:

2.1.           Về các điều kiện, thủ tục áp dụng đối với thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y

Theo Dự thảo, thủ tục hành chính trong thử nghiệm và khảo nghiệm thuốc thú y được thiết kế với các loại thủ tục, điều kiện kinh doanh sau:

-         Đối với cơ sở chăn nuôi:

(1)  Chứng nhận hợp quy về điều kiện vệ sinh thú y theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện vệ sinh thú y đối với cơ sở thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y (Điều 6 của Dự thảo dẫn chiếu đến Mục 3.1, QCVN 01-42:2011/BNNPTNT, ban hành theo Thông tư số 33/2011/TT-BNNPTNT)

-         Đối với đơn vị thực hiện thử nghiệm, khảo nghiệm:

(2)  Chứng chỉ hành nghề thử nghiệm, khảo nghiệm của chủ cở sở hoặc người phụ trách kỹ thuật của cơ sở (Điều 7.1 của Dự thảo)

(3)  Quyết định công nhận cơ sở đủ điều kiện thử nghiệm, khảo nghiệm (Điều 8 của Dự thảo)

(4)  Giấy chứng nhận phòng thử nghiệm các chỉ tiêu thử nghiệm khảo nghiệm được cơ quan có thẩm quyền chỉ định (Điều 8.1.c của Dự thảo)

-         Đối với đơn vị có thuốc:

(5)  Phiếu kiểm nghiệm của Trung tâm Kiểm nghiệm thuốc thú y nhà nước (Điều 10.1.c của Dự thảo)

(6)  Quyết định thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y (Điều 10 của Dự thảo)

(7)  Báo cáo kết quả thử nghiệm, khảo nghiệm (Điều 15 của Dự thảo)

Từ góc độ pháp lý và thực tiễn, các thủ tục, điều kiện kinh doanh này đặt ra nhiều vấn đề bất cập, cụ thể:

-         Từ góc độ pháp luật, đa số các loại thủ tục, điều kiện kinh doanh này không tuân thủ quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 (và Luật Đầu tư 2014)

Cụ thể, Điều 7.5 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh”. Như vậy,  văn bản cấp Bộ (Dự thảo Thông tư này là văn bản cấp Bộ) không được phép quy định về điều kiện kinh doanh mà chỉ được phép quy định hướng dẫn chi tiết các điều kiện kinh doanh đã được quy định trong văn bản pháp luật từ cấp Chính phủ trở lên.

Trong khi đó, 05 trong 07 loại thủ tục, điều kiện kinh doanh mà Dự thảo Thông tư đang dự kiến không được quy định trong Pháp lệnh Thú y cũng như Nghị định 33/2005/NĐ-CP, chỉ trừ quy định về Quyết định công nhận cơ sở đủ điều kiện thử nghiệm, khảo nghiệm và Chứng chỉ hành nghề thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y (mục (2) và (3) liệt kê bên trên).

-         Từ góc độ thực tiễn, các thủ tục này hầu hết là chồng chéo, vượt quá yêu cầu quản lý rủi ro, tạo ra gánh nặng chi phí không cần thiết cho cả doanh nghiệp và cơ quan nhà nước

Ví dụ, việc thử nghiệm, khảo nghiệm được thực hiện bằng chi phí của đơn vị có thuốc thú y cần thử nghiệm, khảo nghiệm; trong phạm vi đã được giới hạn và kiểm soát (cơ sở thử nghiệm, khảo nghiệm); sản phẩm để thử nghiệm, khảo nghiệm không được phép lưu hành hay sử dụng rộng rãi. Do đó việc này hầu như không gây ra nguy cơ nào đáng kể cho cộng đồng (bao gồm cả nguy cơ ảnh hưởng tới động thực vật, con người và sản xuất). Vậy tại sao mỗi lần muốn thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc lại phải xin đăng ký với Nhà nước để được phép thử nghiệm, khảo nghiệm?

Cũng như vậy, về kết quả thử nghiệm/khảo nghiệm: Nhà nước đã quản lý các cơ sở thử nghiệm, khảo nghiệm (thông qua Giấy chứng nhận cơ sở đủ điểu kiện thử nghiệm, khảo nghiệm) để đảm bảo rằng các cơ sở này có đủ năng lực. Hơn nữa, các cơ sở này phải chịu trách nhiệm đối với tính chính xác, trung thực, khoa học của các kết quả khảo nghiệm mà mình thực hiện (tương tự như Chứng thư giám định, các Chứng nhận kết quả kiểm toán....cũng do đơn vị thực hiện giám định/kiểm toán chịu trách nhiệm hoàn toàn). Kết quả thử nghiệm, khảo nghiệm sẽ phải được doanh nghiệp đưa vào hồ sơ xin phép lưu hành thuốc thú y liên quan. Vậy, Nhà nước cần doanh nghiệp báo cáo mỗi khi hoàn thành kết quả thử nghiệm, khảo nghiệm để làm gì?

Trong khi đó, để thực hiện các thủ tục không cần thiết này, cả doanh nghiệp và Nhà nước đều phải bỏ ra các chi phí về tiền, nhân lực, bộ máy để thực hiện việc xin – cho phép này.

-         Từ góc độ cải cách hành chính, ngay cả khi các thủ tục, điều kiện kinh doanh dự kiến trong Dự thảo là cần thiết, đúng pháp luật thì những quy trình để được cấp phép trong Dự thảo cũng không đảm bảo các yêu cầu đối với thủ tục hành chính. Ví dụ:

o   Dự thảo có đề cập tới “Phiếu kiểm nghiệm của cơ sở kiệm nghiệm thuốc thú y nhà nước” (Điều 10.1.c) nhưng lại không có dẫn chiếu nào tới quy định về thủ tục để có Phiếu kiểm nghiệm này.

o   Trong hầu hết các quy định, liên quan tới thủ tục xử lý hồ sơ, Dự thảo đều dự kiến bước “trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xin ý kiến” với khoảng thời gian tương đối dài (ví dụ Điều 8.2b, Điều 10.2 quy định là 07 ngày làm việc, tức là khoảng 10 ngày lịch) trong khi việc thẩm định hồ sơ đã thực hiện bởi Cục Thú y rồi (tức là đã hoàn thành công việc cơ bản rồi, việc trình lên Bộ chỉ là thủ tục nội bộ trong Bộ mà thôi và do đó về nguyên tắc là không được tính thời hạn riêng); Hơn nữa cũng không rõ Bộ sẽ cho ý kiến dựa trên các tiêu chí nào, có khác so với các tiêu chí mà Cục Thú y sử dụng để thẩm định không?

            Từ các lý do nêu trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các loại thủ tục, điều kiện kinh doanh sau đây khỏi Dự thảo:

-         Chứng nhận hợp quy về điều kiện vệ sinh thú y theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện vệ sinh thú y đối với cơ sở thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y (Điều 6 của Dự thảo dẫn chiếu đến Mục 3.1, QCVN 01-42:2011/BNNPTNT, ban hành theo Thông tư số 33/2011/TT-BNNPTNT)

-         Giấy chứng nhận phòng thử nghiệm các chỉ tiêu thử nghiệm khảo nghiệm được cơ quan có thẩm quyền chỉ định (Điều 8.1.c)

-         Phiếu kiểm nghiệm của Trung tâm Kiểm nghiệm thuốc thú y nhà nước (Điều 10.1.c)

-         Quyết định thử nghiệm, khảo nghiệm thuốc thú y (Điều 10)

-         Báo cáo kết quả thử nghiệm, khảo nghiệm (Điều 15)

2.2.           Về các trường hợp phải kiểm tra chất lượng thuốc thú y trong sản xuất (Điều 18.2)

Điều 18.2.b của Dự thảo quy định trường hợp kiểm tra khi “sản phẩm lưu thông trên thị trường không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng thông qua việc kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm hoặc khi có khiếu nại về chất lượng sản phẩm.

Trong khi đó, Điều 5.2.b Nghị định 132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa (mà Thông tư này phải tuân thủ) lại quy định về điều kiện kiểm tra cho trường hợp này là: “Hàng hoá lưu thông trên thị trường không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sự không phù hợp này có tính hệ thống, lặp lại.

Như vậy, quy định tại Dự thảo thiếu điều kiện về tính hệ thống, lặp lại của sự không phù hợp. Do đó, đề nghị Ban Soạn thảo sửa lại quy định này tại Dự thảo cho phù hợp với quy định tương ứng tại  Nghị định 132, cụ thể:

-         Chỉ tiến hành kiểm tra cơ sở sản xuất khi 2 lần trở lên phát hiện sự không phù hợp của thuốc thú y lưu hành trên thị trường ở 2 lô hàng khác nhau.

-         Chỉ tiến hành kiểm tra cơ sở sản xuất khi cơ quan nhà nước tiếp nhận ít nhất 2 kiến nghị về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng.

2.3.           Về thủ tục kiểm tra chất lượng thuốc thú y nhập khẩu (Điều 19)

Liên quan tới thủ tục kiểm tra chất lượng thuốc thú y nhập khẩu, Dự thảo đã đưa ra các quy định về kiểm tra chất lượng thuốc thú y nhập khẩu rõ ràng hơn so với Quyết định 72/2007/QĐ-BNN và Quyết định 100/2007/QĐ-BNN.

Tuy nhiên, theo Dự thảo thì dường như việc kiểm tra chất lượng thuốc thú y sẽ bị siết chặt hơn so với hiện tại và cũng chặt hơn so với thuốc thú y sản xuất trong nước. Cụ thể, Dự thảo quy định việc kiểm tra hồ sơ thuốc thú y nhập khẩu được tiến hành với tất cả các lô hàng nhập  khẩu vì mục đích thương mại. Việc lấy mẫu được thực hiện theo tần suất tối thiểu 20% số lương lô hàng. Trong khi đó, Điều 10 Quyết định 72/2007/QĐ-BNN (sửa đổi bằng Quyết định 100/2007/QĐ-BNN) không yêu cầu phải kiểm tra đối với từng lô hàng thuốc thú y đã có trong Danh mục thuốc thú y được phép lưu hành mà chỉ lấy mẫu kiểm tra chất lượng theo kế hoạch hoặc khi có khiếu nại tố cáo. Đối với thuốc thú y sản xuất trong nước, Dự thảo cũng chỉ quy định việc kiểm tra khi có khiếu nại, tố cáo hoặc khi phát hiện vi phạm.

Tài liệu mà Ban Soạn thảo cung cấp chỉ có dự thảo, không kèm theo bất kỳ tài liệu giải trình nào (như tờ trình hoặc bản thuyết minh), do đó không thể xác định rõ mục tiêu của việc tăng cường kiểm soát này. Dù vậy, có thể suy đoán rằng việc tăng cường kiểm soát này có thể nhằm 02 mục tiêu: (i) tạo rào cản thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, giúp nền sản xuất trong nước phát triển; (ii) bảo đảm hơn về chất lượng thuốc thú y nhập khẩu do chúng có rủi ro cao hơn so với thuốc thú y sản xuất trong nước;

Trên thực tế thì hai mục tiêu này (nếu đúng là Dự thảo được thiết kế nhằm hai mục tiêu này) là không hợp lý, thậm chí có thể gây ra hệ quả bất lợi không mong muốn cho sản xuất chăn nuôi trong nước ít nhất là từ các góc độ sau:

-         Về năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất thuốc thú y trong nước

Theo thông tin từ các doanh nghiệp thì trong những năm gần đây, việc sản xuất thuốc thú y trong nước đã được cải thiện đáng kể, tăng cả về số mặt hàng và lượng cung cấp. Mặc dù vậy, việc sản xuất này vẫn còn cách xa so với nhu cầu, đồng thời vẫn còn phụ thuộc không nhỏ vào nguồn nhập khẩu. Cụ thể, đối với các loại thuốc thú y là hóa phẩm, trong khi nguồn cung trong nước đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tiêu thụ, đa số nguyên liệu thuốc thú y hóa phẩm này hiện vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Còn đối với thuốc thú y là vắc xin thì nguồn cung cho thị trường hầu hết vẫn là nhập khẩu.[1]

Như vậy, ít có sự cạnh tranh trực tiếp và rõ ràng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu. Từ đó, việc tăng cường kiểm tra hàng nhập khẩu có thể sẽ không đạt được mục đích bảo hộ, giúp sản xuất trong nước phát triển. Trong khi đó, việc này lại làm tăng chi phí cho các hãng trong nước đang phải nhập khẩu nguyên liệu, làm tăng chi phí cung cấp và tăng giá thành của hầu hết các loại thuốc thú y (kể cả vắc xin và hóa phẩm), từ đó sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

-         Về mục tiêu kiểm soát chất lượng hàng nhập khẩu

Thời gian vừa qua, các hiện tượng thuốc thú y kém chất lượng nổi cộm ở trong nước ghi nhận được chủ yếu xuất phát từ các loại thuốc thành phẩm được sản xuất trong nước chứ không phải loại nhập khẩu[2]. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp trong nước gian lận về thành phần, nhãn mác của thuốc thành phẩm. Như vậy, vấn đề chất lượng của hàng nhập khẩu không thể là động cơ để kiểm soát chặt hơn loại hàng hóa này.

-         Về mặt pháp lý

Mặc dù việc kiểm soát chất lượng không thuộc nội dung điều kiện kinh doanh và do đó không phải tuân thủ yêu cầu tại Điều 7.5 Luật Doanh nghiệp 2005 (như nêu ở trên), cần chú ý rằng văn bản ở cấp Thông tư như Dự thảo này chỉ được hướng dẫn chi tiết các nội dung tại các văn bản cấp trên chứ không ban hành mới các quy định cơ bản. Trong khi đó, cả Pháp lệnh Thú y và Nghị định 33/2005/NĐ-CP đều không có quy định về việc kiểm tra chất lượng đối với thuốc thú y nhập khẩu như trong Dự thảo Thông tư.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc kỹ hơn và giải trình rõ về việc tăng cường kiểm tra đối với thuốc thú y nhập khẩu.

2.4.           Đối tượng kiểm tra chất lượng thuốc thú y nhập khẩu (Điều 19.2.a)

Điều 19.2.a quy định phải kiểm tra chất lượng đối với thuốc thú y nhập khẩu. Điều 19.2.b quy định việc miễn kiểm tra đối với “nguyên liệu thuốc thú y dùng trong chẩn đoán, xét nghiệm, kiểm nghiệm về thú y”. . Điều này có nghĩa là việc kiểm tra sẽ được tiến hành đối với cả các loại nguyên liệu dùng để sản xuất thuốc đã có số đăng ký lưu hành. Một số doanh nghiệp phản ánh với VCCI là điều này không cần thiết bởi các lý do sau:

-         Nguyên liệu thuốc thú y không phải là sản phẩm được cung cấp rộng rãi ra thị trường để phục vụ chăn nuôi. Quan hệ mua bán chỉ là quan hệ giữa các thương nhân và vì vậy nếu chất lượng không đảm bảo thì nên được giải quyết theo cơ chế tranh chấp thương mại.

-         Khi nguyên liệu thuốc thú y được đưa vào sản xuất thì lại bị kiểm tra một lần nữa với tư cách kiểm tra chất lượng thuốc thú y thành phẩm. Như vậy, việc bố trí hai lượt kiểm tra sẽ gây lãng phí không cần thiết.

Do đó, đề nghị Ban Soạn thảo miễn việc kiểm tra chất lượng nguyên liệu thuốc thú y nhập khẩu đã có trong danh mục đăng ký lưu hành tại Việt Nam.

Liên quan tới quy định về lấy mẫu phân tích chất lượng đối với thuốc thú y nhập khẩu, Điều 19.5d quy định “Kết quả phân tích chất lượng của cơ sở kiểm nghiệm nhà nước là căn cứ pháp lý để cơ quan thú y vùng, chi cục kiểm dịch vụ xử lý tiếp trong quá trình kiểm tra

Quy định này có nhiều điểm chưa rõ ràng, không hợp lý, ví dụ:

-         Sao lại có “Kết quả phân tích chất lượng của cơ sở kiểm nghiệm nhà nước” ở đây? (toàn bộ quy trình phía trên không hề nhắc đến việc phân tích chất lượng của cơ sở kiểm nghiệm nhà nước)

-         Việc “xử lý tiếp” của cơ quan thú y vùng, chi cục kiểm dịch là xử lý cái gì? Trong khuôn khổ nào? “quá trình kiểm tra” này là quá trình nào?

Trường hợp không làm rõ được nội dung này thì đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này

2.5.           Về hồ sơ đăng ký kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập khẩu (Điều 20.1)

Điều 20.1 của Dự thảo quy định về Hồ sơ đăng ký kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập khẩu trong đó có nhiều giấy tờ không rõ mục tiêu hoặc không rõ ràng, không cần thiết, có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp, ví dụ:

-         Không rõ tại sao phải làm 02 bản Giấy đăng ký kiểm tra chất lượng (mà không phải là 01 bản như thông thường)?

-         “Phiếu phân tích chất lượng thuốc thú y của nhà sản xuất cấp” cần được hiểu là gì? bản in mà nhà sản xuất in số lượng lớn đi kèm sản phẩm hay là bản phân tích cho từng trường hợp cụ thể có đóng dấu? Nếu là bản có dấu thì với các đơn vị nhập khẩu không mua sản phẩm trực tiếp từ nhà sản xuất thì làm thế nào mà có được?

-         Tại sao cần giấy chứng nhận xuất xứ?

Về mặt logic, hồ sơ phục vụ việc kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu chỉ cần tập trung vào những tài liệu thể hiện các thông tin liên quan đến chất lượng hàng, không cần thiết xuất trình các tài liệu thương mại khác không thuộc thẩm quyền kiểm tra của Cục Thú y. Điều này giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp và cũng đỡ tốn thời gian kiểm tra những thông tin không cần thiết cho cơ quan nhà nước.

Do đó, đề nghị ban Soạn thảo cân nhắc lại các tài liệu trong Hồ sơ tại Điều 20.1 nói trên để:

-         Bỏ các yêu cầu về tài liệu không cần thiết, không liên quan tới việc kiểm tra chất lượng;

-         Điều chỉnh các loại giấy tờ khác cho phù hợp với thực tiễn thương mại của doanh nghiệp.

2.6.           Về trình tự kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập khẩu (Điều 20.2)

Điều 20.2 của Dự thảo quy định về thủ tục kiểm tra chất lượng sản phẩm nhập khẩu. Đây thực chất là hình thức kiểm tra hải quan chuyên ngành trong các thủ tục xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp phải thực hiện.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2013 về năng lực cạnh tranh của Việt Nam, thời gian kiểm tra chuyên ngành đang là vướng mắc lớn nhất trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa, chiếm đến 72% thời gian làm thủ tục. Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo yêu cầu các Bộ ngành phối hợp với ngành Hải quan để giảm 50% thời gian thông quan hàng hóa trong năm 2015. Muốn làm được điều đó, thủ tục kiểm tra chuyên ngành phải được thiết kế sao cho nhanh và đơn giản nhất có thể.

Hơn nữa, Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO (TFA) vừa mới được thông qua cũng đặt ra nhiều yêu cầu cải cách về thủ tục hải quan, bao gồm cả thủ tục kiểm soát chuyên ngành trong hải quan.

Tuy nhiên, Dự thảo lại chưa thể hiện được tinh thần cũng như các yêu cầu cải cách này. Do đó, đề nghị Ban Soạn thảo sửa đổi các quy định về kiểm tra chuyên ngành thuốc thú y đối với hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu với các nội dung cụ thể sau:

-         Cho phép Doanh nghiệp nộp hồ sơ qua mạng internet (qua email hoặc website của cơ quan kiểm tra), có chữ ký điện tử.

-         Nếu hồ sơ không đầy đủ, cơ quan nhà nước sẽ yêu cầu bổ sung hồ sơ trong vòng 2 giờ làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ. Nếu không yêu cầu thì coi như hồ sơ đầy đủ.

-         Trả lời kết quả kiểm tra hồ sơ trong vòng 2 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ. Nếu không trả lời trong vòng 2 ngày thì coi như hồ sơ đáp ứng yêu cầu của pháp luật.

-         Thực hiện kết nối với cơ quan Hải quan để đảm bảo rằng doanh nghiệp không phải nộp lại các loại giấy tờ đã nộp cho cơ quan Hải quan và các kết quả kiểm tra được thông tin ngay cho cơ quan Hải quan để thực hiện việc thông quan ngay cho doanh nghiệp khi có kết quả kiểm tra

-         Riêng đối với quy định về kết quả phân tích chất lượng sản phẩm: Theo quy định tại Điều 5 TFA thì trường hợp doanh nghiệp không đồng ý với kết quả kiểm tra lần đầu thì phải cho phép doanh nghiệp được kiểm tra lần hai tại một cơ sở kiểm định độc lập. Vì vậy, để đảm bảo nghĩa vụ này trong TFA, cần bổ sung quy định tương tự vào Dự thảo.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về Dự thảo Thông tư quy định về thử nghiệm, khảo nghiệm và kiểm tra chất lượng thuốc thú y. Rất mong Ban Soạn thảo xem xét, cân nhắc.

Trân trọng cảm ơn./.



[1] http://www.thanhnien.com.vn/kinh-te/thuoc-thu-y-ngoai-chiem-linh-thi-truong-viet-524370.html

[2] http://www.minhdung.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=536:kho-kim-soat-th-trng-thuc-thu-y&catid=50:tt-thu-y-thuy-san&Itemid=60

Các văn bản liên quan