VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện giá cước vận tải hành khách bằng xe ô tô theo tuyến cố định, xe buýt và xe taxi
VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định về xử phát hành chính trong lĩnh vực hải quan
Kính gửi: Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở phản ánh của doanh nghiệp, tiếp tục góp ý Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan (sau đây gọi tắt là Dự thảo) như sau:
Ngày 08/11/2019, VCCI có Công văn số 2632/PTM-PC góp ý Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan. So với phiên bản tháng 11/2019, Dự thảo phiên bản tháng 02/2020 có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng. Trên cơ sở góp ý của doanh nghiệp, hiệp hội, VCCI có một số ý kiến góp ý đối với Dự thảo (phiên bản tháng 02/2020) như sau:
- Về vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Điều 21)
So với phiên bản tháng 11/2019 thì đây là quy định mới. Theo quy định tại khoản 2, điểm a khoản 8 Điều 21 Dự thảo thì sẽ phạt tiền và buộc đưa ra khỏi lãnh thổ hoặc tái xuất đối với tang vật vi phạm của hành vi “nhập khẩu hàng hóa có nhãn hàng hóa không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung bắt buộc trên nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa”. Quy định này có thể được hiểu, nhãn gốc của hàng hóa nhập khẩu không phù hợp với quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa sẽ bị xử phạt tiền và biện pháp khắc phục hậu quả trên. Quy định này là chưa thống nhất với các quy định khác có liên quan, cụ thể
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 119/2017/NĐ-CP[1] thì “đối với hàng hóa nhập khẩu chưa được thông quan thì áp dụng Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan để xử phạt đối với các vi phạm về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa”. Có nghĩa, Dự thảo sẽ điều chỉnh các hành vi vi phạm của pháp luật về nhãn đối với hàng hóa nhập khẩu chưa thông quan.
- Khoản 4 Điều 9 Nghị định 43/2017/NĐ-CP[2] quy định “hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam mà nhãn gốc không phù hợp với quy định của Nghị định này thì tổ chức, cá nhân nhập khẩu phải ghi nhãn phụ theo quy định tại khoản 3 Điều 7 và các khoản 3, 4 Điều 8 của Nghị định khi đưa ra lưu thông và phải giữ nguyên nhãn gốc”. Theo quy định này thì nhãn gốc của hàng hóa nhập khẩu không phù hợp với quy định của pháp luật về nhãn tại thời điểm trước khi đưa ra lưu thông, không được xem là vi phạm.
Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 21 Dự thảo là chưa phù hợp với quy định tại Nghị định 43/2017/NĐ-CP. Để đảm bảo tính thống nhất của quy định, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại khoản 2 Điều 21 Dự thảo.
- Những góp ý của VCCI chưa được tiếp thu
So với phiên bản tháng 11/2019, Dự thảo phiên bản tháng 02/2020 đã tiếp thu một số góp ý của VCCI, một số ý kiến vẫn chưa tiếp thu và VCCI chưa biết được các lý do chưa tiếp thu, vì vậy VCCI tiếp tục phản ánh lại, đề nghị Ban soạn thảo xem xét, cân nhắc các quy định sau:
- Vi phạm quy định về thời hạn làm thủ tục hải quan, nộp hồ sơ thuế (Điều 8)
Điểm h khoản 3 Điều 8 Dự thảo quy định xử phạt hai hành vi “không thông báo” và “thông báo không đúng thời hạn” vào một khung xử phạt là chưa hợp lý, bởi vì tính chất của hai hành vi vi phạm này khác nhau (“không thông báo” là hoàn toàn không thực hiện nghĩa vụ, “thông báo không đúng thời hạn” là có thực hiện nghĩa vụ nhưng chưa đúng), do đó mức xử phạt phải khác nhau.
Để đảm bảo tính hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo quy định hai hành vi “không thông báo”, “thông báo không đúng thời hạn” ở hai khung xử phạt khác nhau.
Góp ý tương tự đối với các hành vi “không cung cấp”, “cung cấp không đầy đủ, đúng thời hạn” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 11.
- Miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, trình tự, thủ tục và thẩm quyền miễn, giảm tiền phạt (Điều 33)
b.1. Về Hồ sơ miễn, giảm
Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Dự thảo thì trong hồ sơ đề nghị miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính phải có:
- (1) Bản sao có xác nhận công chứng về bồi thường thiệt hại, về thanh toán chi phí khám, chữa bệnh của cơ quan bảo hiểm trường hợp thiệt hại về tài sản, chữa bệnh được cơ quan bảo hiểm bồi thường (điểm b khoản 3);
- (2) Xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc nơi có tài sản bị thiệt hại. Trường hợp cá nhân bị bệnh hiểm nghèo phải có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh; chi phí khám, chữa bệnh có đầy đủ chứng từ quy định (điểm c khoản 3).
Quy định trên cần được xem xét ở một số điểm sau:
- Việc yêu cầu cùng một lúc hai loại tài liệu (1), (2) là chưa hợp lý và chưa rõ ràng, bởi vì chi phí khám, chữa bệnh có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh là chi phí thực tế mà người bệnh phải chi trả. Chi phí này trong nhiều trường hợp lớn hơn chi phí do cơ quan bảo hiểm chi trả (tùy thuộc vào giá trị bảo hiểm và thỏa thuận của các bên về phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm). Việc yêu cầu cả hai loại tài liệu này để xác định chi phí chữa bệnh khiến cho quy định trở nên thiếu rõ ràng, cơ quan nhà nước sẽ căn cứ vào tài liệu do cơ quan bảo hiểm chi trả hay là chi phí thực tế mà người bệnh phải chi trả?
Hơn nữa, việc đề nghị miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính phải dựa trên mức độ khó khăn, thiệt hại của người đề nghị, tức là phải dựa trên các chi phí thiệt hại thực tế. Tài liệu chi trả của cơ quan bảo hiểm không phản ánh được chi phí này, vì vậy yêu cầu phải có tài liệu này là chưa hợp lý, tạo gánh nặng về thủ tục cho người đề nghị.
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và nơi có tài sản bị thiệt hại sẽ xác nhận về vấn đề gì? Xác nhận có sự thiệt hại về tài sản hay là xác nhận về giá trị tài sản bị thiệt hại?
Để đảm bảo tính minh bạch và hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo:
- Bỏ quy định tại điểm b khoản 3 Điều 33
- Quy định rõ về nội dung Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận
b.2. Về trường hợp không miễn, giảm
Khoản 5 Điều 33 Dự thảo quy định “Không miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp đã thực hiện xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan”.
Quy định này là chưa hợp lý, bởi vì mục tiêu của quy định miễn, giảm tiền phạt xuất phát từ yếu tố nhân đạo khi người được miễn, giảm gặp hoàn cảnh khó khăn do thiệt hại về tài sản, hàng hóa, chi phí chữa bệnh. Việc họ đã thực hiện xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính không có nghĩa họ không bị thiệt hại về tài sản hay sức khỏe và sử dụng căn cứ này để không cho họ được miễn, giảm tiền phạt dường như đi ngược lại mục tiêu của quy định này.
Để đảm bảo tính hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định trên và chỉ giữ lại trường hợp không được miễn giảm khi đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại.
Trên đây là một số ý kiến lần hai của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan (phiên bản tháng 02/2020). Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
[1] Nghị định 119/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/11/2017 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩ, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa
[2] Nghị định 43/2017/NĐ-CP của Chính phủ về nhãn hàng hóa