Ưu đãi thuế GTGT cho dịch vụ xuất khẩu: vướng nhiều đường
Ưu đãi thuế GTGT cho dịch vụ xuất khẩu: vướng nhiều đường
|
(TBKTSG) - Để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ thu ngoại tệ, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách ưu đãi về thuế giá trị gia tăng (GTGT). Theo đó, dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất GTGT 0% như hàng hóa xuất khẩu.
Thuế suất ưu đãi
Việc áp dụng mức thuế suất trên giúp giảm giá thành dịch vụ xuất khẩu, từ đó làm tăng cơ hội cạnh tranh cho các sản phẩm dịch vụ của Việt
Tuy nhiên, việc xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm xác định khi nào thì dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất GTGT 0% lại không rõ ràng.
Từ “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt
Trước thời điểm 1-1-2009, bên cạnh hai điều kiện phụ là: (i) phải có hợp đồng ký với người mua ở nước ngoài theo quy định của Luật Thương mại; và (ii) người mua nước ngoài thanh toán tiền dịch vụ cho cơ sở cung cấp dịch vụ tại Việt Nam (Thông tư 84/2004/TT-BTC ngày 18-8-2004), thì điều kiện tiên quyết cho việc doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ được áp dụng mức thuế suất GTGT 0% là dịch vụ phải được “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam”.
Tuy nhiên, khái niệm này lại không được định nghĩa hay hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình huống là các cơ quan thuế địa phương mỗi nơi giải thích một kiểu trong một thời gian dài. Có nơi giải thích “dịch vụ tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt
Ví dụ: công ty A được thành lập theo luật nước ngoài chuẩn bị thành lập doanh nghiệp tại Việt
Cuối năm, khi kiểm tra thanh quyết toán công ty B, cơ quan thuế địa phương đã không đồng ý việc xuất hóa đơn GTGT 0% vì cho rằng việc nghiên cứu thị trường dù là cung cấp cho công ty A nhưng lại phục vụ cho mục đích thành lập công ty con của công ty A tại Việt Nam và như vậy dịch vụ đó vẫn được xem là “tiêu dùng tại Việt Nam” và phải chịu mức thuế suất 10% thay vì 0%.
Tuy nhiên lúc này công ty A không chịu trả vì họ đã quyết toán toàn bộ chi phí thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam với bộ phận kế toán tập đoàn, và công ty B buộc phải “ôm” luôn số tiền 10% thuế GTGT mà đáng ra công ty A phải chịu và lại còn bị phạt vi phạm hành chính vì nộp chậm tiền thuế GTGT nữa.
Đến “không có cơ sở thường trú tại Việt
Từ thời điểm 1-1-2009 trở đi, khoản 1, điều 6, Nghị định 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8-12-2008 (Nghị định 123) và điểm 1 mục II phần B Thông tư số 129/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26-12-2008 (Thông tư 129) đã đưa ra tiêu chuẩn mới là tổ chức ở nước ngoài “không có cơ sở thường trú tại Việt Nam” để được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% đối với dịch vụ xuất khẩu nói chung (trừ một số dịch vụ không được hưởng thuế suất 0% như tái bảo hiểm ra nước ngoài; chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài).
Thông Tư 129 lại vấp phải rắc rối là không hướng dẫn làm thế nào để xác định được tổ chức ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt
Điều 2 Nghị Định 123 và Công văn 3824/TCT-CS của Tổng cục Thuế ngày 18-9-2009 (Công văn 3824) có hướng dẫn khái niệm “cơ sở thường trú tại Việt Nam” được xác định theo quy định tại văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước.
Tuy nhiên, dù có định nghĩa về cơ sở thường trú như nêu ở trên, trong thực tiễn, vào thời điểm ký hợp đồng dịch vụ với các tổ chức ở nước ngoài, bên cung cấp dịch vụ ở Việt Nam không tài nào biết được là bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam hay không, chỉ khi có khẳng định của bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài thì mới xuất hóa đơn GTGT 0%.
Trong một số trường hợp mà số tiền thuế GTGT phải trả lớn, bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài nộp đơn lên cơ quan thuế Việt
Thậm chí, nếu có cơ chế để cấp giấy xác nhận đi nữa thì cơ quan thuế Việt Nam cũng khó mà kiểm tra một cách thấu đáo việc vào thời điểm đó, bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài đó có cơ sở thường trú tại Việt Nam hay không. Hơn thế nữa, vì tính phức tạp của nó, thời gian chờ đợi được cấp giấy xác nhận (nếu có) hẳn sẽ rất lâu, mà các bên ký kết hợp đồng đôi khi không thể chờ đợi được vì sự cấp bách của giao dịch mà họ muốn giao kết.
Do vậy, để giảm thiểu rủi ro, thực tế bên cung cấp dịch vụ Việt
Đối với một số trường hợp khác, hai bên thỏa thuận rằng bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài sẽ cam kết bằng văn bản việc họ không có cơ sở thường trú tại Việt
Tuy nhiên, điều này cũng không giảm bớt rủi ro cho bên cung cấp dịch vụ Việt
Cần một hướng dẫn dễ áp dụng và thực tế hơn
Để giải quyết dứt điểm những vướng mắc mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam gặp phải, Nhà nước nên xem xét lại việc xác định tiêu chí cơ sở thường trú để áp dụng mức thuế suất 0% cho dịch vụ xuất khẩu. Nếu vẫn muốn duy trì tiêu chí cơ sở thường trú để xác định dịch vụ thực tế có xuất khẩu hay không thì cần có cơ chế để bên cung cấp dịch vụ tại Việt Nam có thể xác định được tình trạng của đối tác nước ngoài, qua đó xác định được chính xác nghĩa vụ thuế của giao dịch.
Ngược lại, nếu việc xác định tình trạng cơ sở thường trú là khó khả thi thì nên chăng xem xét thu hẹp khái niệm cơ sở thường trú tại Việt
Trong trường hợp Nhà nước thấy cần khuyến khích hơn nữa hoạt động xuất khẩu dịch vụ, việc sử dụng tiêu chí cơ sở thường trú tại Việt Nam là không cần thiết nữa, hoàn toàn có thể xác định sản phẩm dịch vụ đã được xuất khẩu thông qua việc yêu cầu phải có hợp đồng cung ứng dịch vụ giữa tổ chức Việt Nam với bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài và chứng từ thanh toán tiền dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng cũng như các chứng từ khác theo quy định của pháp luật.
Theo Thời báo Kinh tế Sài gòn
_______________________________