VCCI góp ý Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 15/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản

Thứ Năm 10:54 19-11-2015

Số:      2976     /PTM-PC                                                           Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2015
Vv: góp ý Dự thảo Nghị định thay thế
Nghị định 15/2012/NĐ-CP hướng dẫn
Luật Khoáng sản

Kính gửi: Tổng cục
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam

Trả
lời Công văn số 4460/BTNMT-ĐCKS ngày 21/10/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về việc lấy ý kiến Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số
15/2012/NĐ-CP ngày 9/3/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật khoáng sản
(sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã triển khai lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp và
có một số ý kiến ban đầu như sau:

1.      Phạm vi sửa đổi, bổ sung

Hiện
nay, có 3 Nghị định trực tiếp hướng dẫn các quy định của Luật Khoáng sản là (1)
Nghị định 15/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản;
(2) Nghị định 22/2012/NĐ-CP quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản; và
(3) Nghị định 203/2013/NĐ-CP quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền
khai thác khoáng sản. Qua 3 năm thực hiện, các văn bản này đều đã phát sinh một
số vướng mắc bất cập cần được sửa đổi bổ sung. Ngoài ra, một số quy định tại
các văn bản tồn tại từ trước khi Luật Khoáng sản 2010 được ban hành cũng đã
phát sinh một số bất cập trên thực tế. Do đó, đề nghị Ban Soạn thảo tiến hành rà soát tất cả các quy định dưới luật
trong lĩnh vực khoáng sản
sửa đổi cùng với việc sửa đổi Nghị định 15
theo hướng giải quyết tối đa các vướng mắc trên thực tế
.

2.      Hoàn trả chi phí điều tra cơ bản địa
chất, chi phí thăm dò khoáng sản

Việc
hoàn trả chi phí điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, chi phí thăm dò khoáng
sản đã được thực hiện trên thực tế từ nhiều năm nay. Mặc dù nghĩa vụ tài chính
này không hề nhỏ nhưng đa phần các doanh nghiệp đều đồng tình vì doanh nghiệp
chỉ có thể phát hiện ra mỏ khoáng sản để khai thác nhờ công tác điều tra, khảo
sát trước đó. Tuy nhiên, có thể các thông tin có được từ điều tra cơ bản địa chất
và thăm dò khoáng sản không chính xác, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khai
thác khoáng sản.

Dự
thảo quy định doanh nghiệp phải trả chi phí sử dụng tài liệu ngay cả khi xin Giấy
phép thăm dò khoáng sản. Điều này là chưa hợp lý vì việc thăm dò mới chỉ giúp
khẳng định lại sự chính xác của các thông tin có được từ khâu điều tra cơ bản,
doanh nghiệp chưa thu được lợi ích kinh tế từ việc thăm dò. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định theo hướng:
doanh nghiệp chỉ phải trả các chi phí đánh giá tiềm năng khi xin Giấy phép
khai thác khoáng sản
, không cần hoàn trả khi xin Giấy phép thăm dò
.

3.      Trữ lượng khoáng sản được phép đưa
vào thiết kế khai thác

Điều
10 của Dự thảo quy định, trữ lượng khoáng sản được phép đưa vào thiết kế khai
thác có thể bằng hoặc nhỏ hơn trữ lượng khoáng sản đã được phê duyệt. Quy định
này cho phép cả các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc
xin cấp phép khai thác khoáng sản nhưng cũng sẽ làm nảy sinh nguy cơ tùy tiện
trong quá trình áp dụng. Ví dụ, quy định này có thể bị lợi dụng để chia nhỏ một
mỏ khoáng sản, hoặc sẽ tạo cơ hội cho cơ quan cấp phép và doanh nghiệp “thương
lượng” với nhau về trữ lượng khoáng sản được phép khai thác. Hơn nữa, việc cấp
phép thấp hơn trữ lượng có thể sẽ gây nguy cơ lãng phí tài nguyên trong lòng đất.

Trước
đây, khi quy định về Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản chưa được áp dụng, các
doanh nghiệp thường làm sao cho trữ lượng khoáng sản được phép khai thác trong
giấy phép là nhiều nhất có thể, đến khi khai thác không đạt sản lượng cũng
không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, hiện nay, khi đã bắt đầu thu tiền cấp quyền, nhiều
trường hợp doanh nghiệp lại muốn xin phép với trữ lượng càng thấp càng tốt. Do
đó, để làm minh bạch quy định này, đề
nghị cơ quan soạn thảo làm rõ một số vấn đề sau
:


Bổ
sung quy định về điều kiện/trường hợp
nào phải cấp
phép theo đúng trữ lượng đã phê duyệt, trường hợp nào được cấp phép nhỏ hơn.


Khi không
có sự thống nhất giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước
về trữ lượng
khoáng sản đưa vào thiết kế khai thác thì xử lý thế nào? Đây có được coi là một
căn cứ để cơ quan nhà nước từ chối cấp phép không? Nếu không thể đi đến thống
nhất trong thời hạn ưu tiên cấp phép cho doanh nghiệp đã thăm dò thì doanh nghiệp
đó có bị mất quyền ưu tiên không?

4.      Sản lượng khoáng sản đã khai thác

Việc
bổ sung quy định về sản lượng khoáng sản đã khai thác là rất cần thiết, bởi hiện
nay, việc giám sát sản lượng là một trong những khâu yếu nhất của việc quản lý
nhà nước về khoáng sản. Tuy nhiên, quy định tại Điều 9.1 của Dự thảo mới chỉ liệt
kê được các cơ sở thông tin, số liệu để xác định sản lượng chứ chưa có phương
pháp cụ thể. Dựa trên cùng một nguồn thông tin như vậy, doanh nghiệp và cơ quan
quản lý vẫn có thể tính ra sản lượng khai thác khác nhau. Sự khác biệt này sẽ dẫn
đến những tranh luận, thỏa hiệp giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về nghĩa
vụ thuế, phí. Do đó, đề nghị cơ quan
soạn thảo hướng dẫn cụ thể hơn về việc xác định sản lượng khoáng sản đã khai
thác
.

Về
mặt hình thức, có thể xây dựng văn bản riêng dưới dạng hướng dẫn kỹ thuật để
làm cơ sở cho việc tính toán. Do đây là vấn đề kỹ thuật phức tạp, có nhiều tình
huống phát sinh trên thực tiễn nên các hướng dẫn kỹ thuật này chỉ nên dừng lại ở
mức tham khảo, định hướng (luật mềm), không phải là văn bản bắt buộc áp dụng
(luật cứng).

5.      Xác nhận vốn chủ sở hữu trong hoạt
động khoáng sản

Vấn
đề chứng minh vốn chủ sở hữu cũng đã được quy định trong nhiều lĩnh vực khác
như kinh doanh bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm, tổ chức tín dụng, dự án đầu
theo hình thức đối tác công tư… Hiện nay, việc yêu cầu nhà đầu tư/doanh nghiệp
phải nộp tiền vào một tài khoản tiền gửi ngân hàng rồi sử dụng giấy xác nhận của
ngân hàng để xin cấp phép hoạt động chỉ còn áp dụng đối với việc thành lập ngân
hàng, tổ chức tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản
thì chỉ cần vốn điều lệ lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định (20 tỷ), doanh nghiệp
chỉ cần Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không cần giấy tờ khác để xác nhận
(Điều 4, Nghị định 76/2015/NĐ-CP). Đối với đầu tư theo hình thức đối tác công
tư thì hiện nay chủ yếu được ký kết dưới dạng doanh nghiệp dự án. Vốn điều lệ của
doanh nghiệp dự án phải lớn hơn số vốn tối thiểu cần có theo quy định của pháp
luật.

Việc
yêu cầu xác nhận vốn qua tài khoản gửi ngân hàng là do Luật Doanh nghiệp 2005
chưa kiểm soát tốt về vấn đề góp vốn thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp
2014 đã khắc phục bằng nhiều quy định như yêu cầu góp đúng, góp đủ, có thẩm định
giá tài sản góp vốn, thời hạn góp vốn 90 ngày, và có chế tài khi góp không đủ vốn.
Do đó, các quy định pháp luật ban hành sau năm 2014 chỉ cần căn cứ vào vốn điều
lệ được ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không cần gửi tiền vào
ngân hàng.

Do
lĩnh vực khoáng sản chỉ có mức rủi ro tài chính tương đương bất động sản hoặc
các dự án đối tác công tư xây dựng cơ bản, không cỏ tính rủi ro hệ thống như
lĩnh vực tài chính, nên việc xác nhận vốn chủ sở hữu cũng chỉ nên áp dụng tương
tự. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi
Điều 12 theo hướng sau
:


Đối
với các doanh nghiệp đang hoạt động
thì chỉ cần vốn điều lệ
lớn hơn hoặc bằng vốn tối thiểu cần có.


Đối
với doanh nghiệp dự án sắp thành lập
thì chỉ cần cam kết
góp vốn của chủ đầu tư và vốn điều lệ của doanh nghiệp dự án đạt mức tối thiểu
cần có.

6.      Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng
sản chung toàn quốc

Điều
10.1.b của Luật Khoáng sản 2010 quy định về quy hoạch khoáng sản chung toàn quốc
và giao cho Chính phủ phân công các Bộ lập quy hoạch này và trình Thủ tướng ban
hành. Tuy nhiên, Nghị định 15 chưa hướng dẫn nội dung này. Dự thảo Nghị định sửa
đổi, bổ sung Nghị định 15 cũng không đề cập vấn đề này.

Theo
thông tin mà VCCI nắm được,việc xây dựng một bản quy hoạch với đầy đủ 7 nội
dung như quy định tại Điều 12.3 của Luật Khoáng sản là chưa khả thi vào thời điểm
này vì đòi hỏi rất nhiều thông tin và công sức. Để khắc phục việc thiếu Quy hoạch
khoáng sản chung toàn quốc, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành nhiều văn bản
thể hiện từng phần nội dung của quy hoạch, như “Khoanh định khu vực hoạt động khoáng sản, trong đó thể hiện cả khu vực
có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ” “Khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm
thời cấm hoạt động khoáng sản; khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia”
. Các văn
bản từng phần này có nội dung và giá trị áp dụng như một bản quy hoạch nhưng lại
không được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục của một quy hoạch (bao gồm việc
lấy ý kiến các bên liên quan và công bố). Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật về khoáng sản.

Với
thực trạng đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định theo hướng: việc lập, lấy ý kiến, phê duyệt, công bố
các văn bản về khoanh định khu vực khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ, khu vực cấm, tạm
thời cấm, dự trữ khoáng sản quốc gia được thực hiện tương tự như thủ tục lập, lấy
ý kiến, phê duyệt, công bố các quy hoạch khoáng sản
.

7.      Lấy ý kiến quy hoạch khoáng sản

Điều
15.1 của Dự thảo quy định đối tượng được lấy ý kiến về dự thảo quy hoạch khoáng
sản chỉ là các cơ quan nhà nước. Trong khi đó, quy hoạch có ảnh hưởng rất lớn đến
quyền lợi của người dân khu vực có khoáng sản và các doanh nghiệp. Do đó, nên mở
rộng việc lấy ý kiến đối với cả các đối tượng này. Hiện nay, dự thảo Luật Quy
hoạch cũng đang rất chú trọng đến việc lấy ý kiến người dân và doanh nghiệp
trong giai đoạn trước ban hành, không thể thiếu việc đăng tải công khai đề xuất
quy hoạch và lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung hai quy định sau:


Thứ nhất, dự thảo quy hoạch khoáng sản phải được đăng công khai ít nhất
45 ngày trước khi được thông qua.


Thứ hai, dự thảo quy hoạch khoáng sản phải được gửi lấy ý kiến cộng đồng
dân cư nơi có khoáng sản và các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong lĩnh
vực khoáng sản.

8.      Công bố quy hoạch khoáng sản

Điều
15.3 của Dự thảo quy định việc công bố quy hoạch trong thời gian 30 ngày làm việc,
kể từ ngày quy hoạch khoáng sản được phê duyệt. Trên thực tế, các quy hoạch
khoáng sản gần đây được ban hành chủ yếu là các bản bổ sung thêm một vài mỏ vào
quy hoạch đã có sẵn, và chỉ một thời gian ngắn sau đó thì mỏ đó được cấp phép.
Như vậy, khoảng thời gian 30 ngày kể từ khi quy hoạch khoáng sản được phê duyệt
(và thường là có hiệu lực ngay) cho đến ngày công bố là quá dài. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định
theo hướng bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của quy hoạch khoáng:
không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày ký hoặc 15 ngày kể từ ngày công bố
.

Dự
thảo hiện nay quy định hai hình thức công bố quy hoạch khoáng sản gồm (1) tổ chức
họp báo công khai, hoặc (2) đăng tải trên website Chính phủ, website của cơ
quan chủ trì lập quy hoạch. Để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp theo
dõi quy hoạch, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng: việc đăng tải trên website của Chính phủ website của cơ quan chủ trì lập
quy hoạch là bắt buộc, còn việc tổ chức họp báo mang tính tùy  nghi
.

9.      Hỗ trợ của doanh nghiệp đối với người
dân nơi có hoạt động khoáng sản

Việc
bổ sung một chương với 5 điều luật quy định cụ thể hơn về quyền lợi của địa
phương và người dân nơi có khoáng sản là rất cần thiết. Điều 19 của Dự thảo quy
định về hỗ trợ của doanh nghiệp đối với người dân nơi có hoạt động khoáng sản.
Quy định này đã giúp thể chế hóa thực tiễn rằng các doanh nghiệp khoáng sản vẫn
thường có các khoản đóng góp cho người dân và chính quyền địa phương. Trên thực
tế, nhiều vấn đề bất cập cũng đã nảy sinh từ các khoản hỗ trợ này, như việc
chính quyền ra văn bản yêu cầu doanh nghiệp phải “tự nguyện” đóng góp, hay việc
sử dụng sai mục đích các khoản hỗ trợ. Do đó, Điều 19 vẫn cần làm rõ một số nội dung sau:


Ngoài các khoản hỗ trợ được quy định tại
Điều luật này, chính quyền địa phương có quyền yêu cầu doanh nghiệp hỗ trợ thêm
các khoản khác không?


Tiền hỗ trợ của doanh nghiệp có thể được
chi trả trực tiếp cho người dân địa phương hay buộc phải thông qua chính quyền
địa phương?


Doanh nghiệp và người dân có quyền giám
sát các khoản hỗ trợ thông qua chính quyền địa phương không? Ngược lại, chính
quyền có quyền yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về các khoản hỗ trợ trực tiếp
không?

10. Trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa
khai thác của doanh nghiệp

Điều
22.3 của Dự thảo quy định: “Tổ chức, cá
nhân được phép hoạt động khoáng sản phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu để
xảy ra tình trạng khai thác trái phép trong phạm vi được phép hoạt động khoáng
sản.”
Quy định này chưa rõ về trách nhiệm pháp lý mà doanh nghiệp phải chịu
ở đây là gì? Có một số trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng (riêng lẻ hoặc kết
hợp) như sau:


Doanh nghiệp bị phạt tiền với giá trị
tuyệt đối khi để xảy ra khai thác khoáng sản trái phép trong phạm vi mỏ mà mình
được cấp phép.


Doanh nghiệp bị phạt tiền với giá trị được
tính theo lượng khoáng sản bị khai thác trái phép.


Doanh nghiệp phải nộp thuế tài nguyên,
phí bảo vệ môi trường và các nghĩa vụ tài chính khác cho phần khoáng sản bị
khai thác trái phép.

Trên
thực tế hiện nay, việc xác định bản chất hành vi khai thác khoáng sản trái phép
trong phạm vi mỏ đã được cấp phép là rất khó khăn. Nếu người ngoài doanh nghiệp
thực hiện thì hành vi đó được coi là khai thác trái phép khoáng sản trái phép
hay trộm cắp của doanh nghiệp? Nếu người lao động của doanh nghiệp thực hiện
thì đó là khai thác trái phép hay tham ô tài sản? Nếu phát hiện được doanh nghiệp
chỉ đạo sự việc đó thì là khai thác trái phép hay che giấu sản lượng nhằm trốn
thuế?

Như
vậy, các quy định pháp luật để xử lý hành vi khai thác trái phép tại những mỏ
khoáng sản đã cấp phép hiện chưa được xác định rõ ràng. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định để thống nhất cách hiểu
và xử lý trong trường hợp này
.

11. Khoanh định khu vực không đấu giá
hoạt động khoáng sản

Sau
hơn 4 năm thực thi Luật Khoáng sản 2010, quy định về đấu giá khai thác khoáng sản
vẫn chưa đi vào thực tiễn. Ngoài nguyên nhân là thủ tục đấu giá quá phức tạp,
chậm có hướng dẫn cụ thể thì còn một phần nguyên nhân là do tiêu chí khoanh định
khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản quá rộng, khiến rất nhiều mỏ
khoáng sản dễ dàng được xếp vào diện không đấu giá. Từ thực tiễn đó, đề nghị cơ
quan soạn thảo rà soát lại các tiêu
chí khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo hướng giảm
các trường hợp không đấu giá
, cụ thể như sau:


Bỏ quy định tại Điều 24.2 của Dự thảo,
vì hiện nay Luật Đầu tư mới đã thay đổi về thẩm quyền và quy trình quyết định
chủ trương đầu tư so với Nghị định 108/2006/NĐ-CP, theo đó, bỏ thẩm quyền của
Thủ tướng trong việc quyêt định chủ trương đầu tư đối với dự án thăm dò, khai
thác khoáng sản.


Bỏ quy định tại Điều 24.6 của Dự thảo về
quyền ưu tiên cấp phép thăm dò khoáng sản đối với tổ chức, cá nhân đã đầu tư điều
tra cơ bản địa chất về khoáng sản, bởi Điều 24.4 của Luật Khoáng sản chỉ ưu
tiên sử dụng thông tin, chứ không ưu tiên cấp phép thăm dò.


Bỏ quy định tại Điều 24.7 của Dự thảo.
Theo quy định của Điều 26.2.a của Luật Khoáng sản thì việc hạn chế về tổ chức,
cá nhân được phép thăm dò, khai thác khoáng sản chỉ mang ý nghĩa hạn chế một số
cá nhân, tổ chức cụ thể, các cá nhân, tổ chức khác không bị hạn chế thì vẫn phải
tiến hành đấu giá.


Bỏ quy định tại Điều 24.9 của Dự thảo. Điều
78.2 của Luật Khoáng sản đã giao thẩm quyền “quy định tiêu chí khoanh định khu
vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản” cho Chính phủ mà theo quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 11 Luật 2015 và Điều 8 Luật
2008): “Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền
tiếp.”

12. Công bố kết quả khoanh định khu vực
không đấu giá

Theo
quy định của pháp luật hiện hành, nếu một mỏ khoáng sản đã được đưa vào quy hoạch
và được công bố thì doanh nghiệp cũng chưa thể xin cấp phép được ngay, do chưa
rõ mỏ đó sẽ được cấp phép theo thủ tục đấu giá hay thủ tục không đấu giá. Nểu mỏ
khoáng sản được xếp vào diện đấu giá thì doanh nghiệp sẽ được thông báo dựa
trên việc công bố kế hoạch đấu giá mỏ. Tuy nhiên, nếu mỏ khoáng sản được xếp
vào diện không đấu giá thì doanh nghiệp không được cung cấp thông tin này. Do
đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung
quy định về việc công bố kết quả khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai
thác khoáng sản trong thời hạn 5 ngày kể từ khi được phê duyệt. Việc bắt đầu nhận
hồ sơ xin cấp phép tại các mỏ này chỉ được thực hiện sau 30 ngày kể từ ngày
công bố kết quả khoanh định khu vực không đấu giá.

13. Lấy ý kiến và trình phê duyệt khu vực
cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản

Dự
thảo bổ sung quy định tại Điều 25 và Điều 26 về lấy ý kiến và trình phê duyệt
khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản. Đây là quy định giúp tăng cường tính
minh bạch của việc quyết định các khu vực hoạt động khoáng sản thuộc thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tương tự như vấn đề về quy hoạch khoáng sản, việc
quyết định khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản có ảnh hưởng rất lớn đến
quyền lợi của doanh nghiệp và người dân trong khu vực có khoáng sản. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo mở rộng phạm vi
đối tượng lấy ý kiến và bổ sung quy định về công bố kết quả phê duyệt khu vực cấm,
tạm cấm hoạt động khoáng sản
, cụ thể:


Thứ nhất, hồ sơ gửi lấy ý kiến kết quả
khoanh định khu vực cấm, tạm cấm cần được đăng
tải trên website của cơ quan trình
ít nhất 45 ngày.


Thứ hai, đối tượng được gửi hồ sơ lấy ý kiến phải bao gồm cả các doanh nghiệp
đang hoạt động khoáng sản
mà nằm trong khu vực dự định cấm, tạm cấm
theo quy định tại Điều 28.3 của Luật Khoáng sản.


Thứ ba, sau khi được phê duyệt, kết quả
khoanh định phải được công bố trên website
của Chính phủ và có hiệu lực sớm nhất là 30 ngày kể từ ngày công bố.

14.
Thủ tục cấp phép tại khu vực không
đấu giá

Mặc
dù không thông qua đấu giá, nhưng thủ tục cấp phép hoạt động khoáng sản tại các
khu vực không đấu giá cũng đã được quy định ít nhiều cho phép sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, rất hiếm trường hợp có hai doanh
nghiệp cùng nộp đơn xin cấp phép hoạt động khoáng sản. Một phần nguyên nhân như
đã nói ở trên là do kết quả khoanh định khu vực không đấu giá hoạt động khoáng
sản không được công khai. Nhưng cũng phải kể đến một lý do nữa là việc đăng
công khai thông tin tiếp nhận hồ sơ của doanh nghiệp xin cấp phép đầu tiên vẫn
chưa được thực hiện đầy đủ.

Theo
quy định, khi tiếp nhận hồ sơ đầu tiên xin phép thăm dò khoáng sản, cơ quan nhà
nước phải đăng tải công khai thông tin này và dành 30 ngày cho cá nhân, tổ chức
khác nộp hồ sơ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc chuẩn bị hồ sơ xin cấp phép thăm
dò khoáng sản, đặc biệt là Đề án thăm dò khoáng sản, đòi hỏi thời gian dài hơn
30 ngày.  Hơn nữa, báo cáo của Bộ TNMT
cũng cho thấy nhiều nơi chưa thực hiện tốt quy định này do thiếu cơ chế giám
sát.

Để
tăng tính cạnh tranh, nhưng cũng không tạo cơ hội cho những cá nhân, tổ chức
khác gây cản trở, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy trình cấp phép hoạt
động khoáng sản tại khu vực không đấu giá như sau:


Ngay khi có doanh nghiệp nộp hồ sơ đầu
tiên, cơ quan nhà nước đăng tải công khai tên
tổ chức, cá nhân đó, tên loại khoáng sản và vị trí khu vực đề nghị thăm dò
khoáng sản, cùng với thời hạn cuối
cùng nhận hồ sơ khác
.


Địa điểm đăng tải công khai là mạng
đấu thầu quốc gia, Báo đấu thầu
.


Khi doanh nghiệp khác nộp hồ sơ thì có
thể cho nợ Đề án thăm dò khoáng sản và cho phép hoàn thành trong vòng 30 ngày sau
đó. Doanh nghiệp này phải nộp một khoản tiền cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Nếu doanh
nghiệp này tiếp tục nộp đề án thăm dò thì khoản tiền được trả lại.

15. Thăm dò nâng cấp trữ lượng

Nghị
định 15 đã cho phép doanh nghiệp thăm dò nâng cấp trữ lượng thì chỉ phải thông
báo đến cơ quan nhà nước, chứ không phải xin Giấy phép thăm dò khoáng sản. Hiện
nay, phát sinh tình trạng một số doanh nghiệp có nhu cầu thăm dò khoáng sản trong
diện tích mỏ nhưng ở độ sâu lớn hơn so với giấy phép. Nhằm khuyến khích việc
khai thác triệt để tài nguyên nằm sâu trong lòng đất, tránh lãng phí, đề nghị
cơ quan soạn thảo bổ sung quy định trong trường
hợp thăm dò trong diện tích mỏ nhưng ở độ sâu lớn hơn thì doanh nghiệp chỉ phải làm thủ tục thông báo.

16.
Doanh nghiệp dự án

Khi
xin cấp phép hoạt động khoáng sản, doanh nghiệp có thể tự mình đứng tên trong
giấy phép đó hoặc sẽ thành lập một doanh nghiệp dự án chỉ để quản lý mỏ khoáng
sản đó (còn gọi là doanh nghiệp dự án). Hiện nay, trong thủ tục cấp phép hoạt động
khoáng sản chưa có quy định phù hợp với trường hợp thành lập doanh nghiệp dự
án. Sự thiếu sót này dẫn đến một số vướng mắc như: khi có nhiều doanh nghiệp
cùng chung vốn trong một dự án khoáng sản thì sẽ không xác định được doanh nghiệp
nào sẽ đứng tên giấy phép, hay doanh nghiệp buộc phải làm thêm thủ tục chuyển
nhượng giấy phép từ công ty mẹ sang công ty con.

Để
khắc phục tình trạng này, dự thảo đã bổ sung quy định về trường hợp xác nhận vốn
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp mới thành lập (Điều 12.1) và quy định cho phép
điều chỉnh (mà thực chất là chuyển nhượng) giấy phép từ công ty mẹ sang công ty
con. Đây là những giải pháp chưa toàn diện, do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
tham khảo kinh nghiệm của việc cấp phép các dự án đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (Nghị định 15/2015/NĐ-CP) đang áp dụng cơ chế doanh nghiệp dự án. Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi cụ thể
trong Nghị định như sau
:


Bổ sung quy định về thủ tục xin cấp phép
hoạt động khoáng sản riêng dành cho trường hợp có thành lập doanh nghiệp dự án.


Trong trường hợp đó, nhà đầu tư hoặc
liên danh nhà đầu tư sẽ làm thủ tục xin cấp phép như bình thường nhưng trong hồ
sơ sẽ có cam kết việc thành lập doanh nghiệp dự án.


Cơ quan nhà nước tiến hành thủ tục cấp
phép như bình thường. Nếu hồ sơ được chấp thuận, cơ quan nhà nước sẽ ra quyết định
đồng ý việc cấp phép và dành thời gian để nhà đầu tư tiến hành thủ tục thành lập
doanh nghiệp dự án.


Vốn của doanh nghiệp dự án phải đáp ứng
điều kiện về vốn tối thiểu cần có để được cấp phép hoạt động khoáng sản.


Cơ quan nhà nước cấp phép khai thác
khoáng sản cho doanh nghiệp dự án.

17.
Công bố thông tin về dự án thăm dò,
khai thác khoáng sản

Một
trong những vấn đề khó khăn trong công tác quản lý khoáng sản hiện nay là cơ
quan nhà nước không đủ nguồn lực để giám sát, ngăn chặn các hành vi vi phạm như
khai thác khoáng sản trái phép, báo cáo thiếu sản lượng, không đáp ứng các quy
định về bảo vệ môi trường. Những vấn đề này cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của
các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc do họ bị mất lợi thế cạnh tranh trước các
doanh nghiệp vi phạm. Một trong những giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng
này là dựa vào năng lực giám sát của người dân địa phương nơi có khoáng sản.

Tuy
nhiên, một trong những cản trở lớn nhất đối với người dân địa phương là họ
không có đủ thông tin về các dự án thăm dò, khai thác khoáng sản để có thể giám
sát việc tuân thủ. Ví dụ, người dân không thể biết một khu vực đang có khai
thác khoáng sản là hợp pháp hay không do họ không biết được danh sách giấy phép
khai thác khoáng sản được cấp. Tương tự, người dân cũng có thể hỗ trợ nhà nước
trong việc giám sát sản lượng khai thác, nhưng lại không có thông tin về công
suất thiết kế.

Với
những lý do đó, đề nghị cơ quan soạn
thảo bổ sung các quy định sau
:


Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm
công bố thông tin cơ bản về các giấy phép hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh
mình


Doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải
treo biển thông báo các thông tin cơ bản về giấy phép hoạt động khoáng sản của
mình tại cửa vào khai trường (tương tự như các dự án xây dựng phải treo biển
nêu rõ một số nội dung trong giấy phép xây dựng như tên chủ đầu tư, tên nhà thầu,
thời gian thi công…)


Các nội dung phải công bố tối thiểu bao
gồm: số giấy phép, thời điểm cấp, cơ quan cấp, người được cấp phép, công suất,
trữ lượng, thời gian, diện tích được phép khai thác, và bản đồ khu vực khai
thác…

Trên
đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự
thảo Nghị định thay thế Nghị định 15/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Khoáng sản. Kính mong Quý Cơ quan xem xét, cân nhắc.

Trân
trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.