VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2022/NĐ-CP của Chính phủ về lệ phí trước bạ
VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh
Kính gửi: Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 1110/BTC-TCT ngày 24/01/2025 của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Nghị định quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:
- Quan điểm tiếp cận
Dự thảo đang xây dựng phương thức thu thuế mới với các cá nhân kinh doanh trên nền tảng số, thay cho phương thức cũ đang được áp dụng. Việc thu thuế là cần thiết, nhưng cần xây dựng phương thức thu thuế đảm bảo giảm thiểu thủ tục hành chính, gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh. Đồng thời, với sự tham gia của nhiều chủ thể trong phương thức mới, các quy định cũng cần phân định rạch ròi trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện.
2. Đơn giản hóa thủ tục kê khai, nộp thuế với cá nhân kinh doanh
Điều 7.2.a Dự thảo quy định cá nhân kinh doanh không đăng ký nộp thuế theo phương pháp kê khai có hoạt động kinh doanh thường xuyên trên nền tảng TMĐT, nền tảng số phải kê khai thuế theo tháng. Hộ cá nhân phải kê khai doanh thu, số thuế phải nộp và chi phí kinh doanh. Quy định này cần cân nhắc một số điểm như sau:
Một, Dự thảo không cho phép các cá nhân kinh doanh trên TMĐT đóng thuế theo phương pháp khoán. Có thể cơ quan soạn thảo suy đoán rằng tất cả hoạt động kinh doanh TMĐT đều sử dụng phần mềm và có thể trích xuất dữ liệu doanh thu nhanh chóng, do đó có thể áp dụng phương pháp kê khai. Tuy nhiên, quy định này không phù hợp với các cá nhân mới kinh doanh hoặc có quy mô nhỏ. Do nguồn vốn nhỏ, các cá nhân này không mua các phần mềm hỗ trợ kinh doanh, và do đó sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện kê khai như trên. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi theo hướng cho phép kê khai theo thuế khoán áp dụng với cá nhân kinh doanh có số lượng đơn hàng dưới ngưỡng (thông tin về số lượng đơn có thể trích xuất thông qua các đơn vị vận chuyển).
Hai, Dự thảo yêu cầu các cá nhân kinh doanh trên TMĐT phải kê khai cả chi phí kinh doanh. Việc này là không cần thiết với các cá nhân kinh doanh nhỏ (không thuộc diện quy mô lớn). Thuế được tính trên doanh thu nên không việc yêu cầu kê khai chi phí là không cần thiết. Hơn nữa, yêu cầu kê khai chi tiết về giá vốn, chi phí nhân công, điện, nước, vận chuyển, tiếp thị quảng cáo sẽ tạo ra gánh nặng lớn với các cá nhân do mô hình quản lý của các cá nhân này vô cùng đơn giản, khó tách bạch cũng như xác định chính xác các chi phí này. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ yêu cầu phải kê khai Mẫu 02-1/BK-CNKD-TMĐT với các cá nhân không kê khai nộp theo phương pháp kê khai.
3. Xác định cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú
Điều 4.2 Dự thảo quy định các mức thuế suất khác nhau đối với hai đối tượng là cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Điều này yêu cầu xây dựng cách thức phân loại cá nhân kinh doanh là cư trú hay không cư trú. Hiện nay, tiêu chí này nằm tại Thông tư 111/2013/TT-BTC. Theo đó, cá nhân cư trú được xác định theo nhiều tiêu chí như có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên hoặc có nơi ở thường xuyên. Các tiêu chí này sẽ dễ xác định hơn với cách thức thu thuế truyền thống, nhưng việc xác định trên môi trường điện tử trở nên khó khăn.
Theo phản ánh của doanh nghiệp, việc xác định cá nhân cư trú hay không cư trú làm căn cứ xác định mức thuế suất khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thông tin khác như thông tin xuất nhập cảnh, đăng ký tạm trú, thường trú, nơi ở… Doanh nghiệp không thể kiểm chứng được các thông tin này và do đó gặp rủi ro trong việc xác định mức thuế. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc một cơ chế như sau:
- Cá nhân kinh doanh có trách nhiệm xác định diện đối tượng (cư trú/ không cư trú)
- Sàn TMĐT sẽ kiểm tra chéo với các thông tin (như quốc tịch và/hoặc nơi bán hàng/cung cấp dịch vụ). Chẳng hạn, cá nhân cư trú thường có quốc tịch Việt Nam, có nơi bán hàng tại Việt Nam;
- Trường hợp có sự sai khác về thông tin, như người quốc tịch nước ngoài nhưng kê khai là cá nhân cư trú/ người Việt Nam nhưng hàng hoá lại nhập khẩu, sàn TMĐT có trách nhiệm có thông báo cho người bán cung cấp tài liệu chứng minh. Cơ quan thuế có trách nhiệm xem xét và ra quyết định cuối cùng.
Quy định như vậy sẽ vừa giảm bớt thủ tục hành chính cho người nộp thuế trong khi vẫn kiểm soát tính chính xác tương đối của thông tin.
4. Trách nhiệm chuyển dữ liệu chứng từ khấu trừ thuế cho cơ quan thuế
Điều 6.3 Dự thảo quy định sàn TMĐT có trách nhiệm chuyển chứng từ khấu trừ khấu cho cơ quan thuế. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này là không phù hợp. Sàn TMĐT đã kê khai chi tiết và đầy đủ số thuế khấu trừ theo từng tháng cho cơ quan thuế và cơ quan thuế đã có đầy đủ thông tin, dữ liệu về người nộp thuế, số thuế phải nộp. Sàn TMĐT sẽ cung cấp khấu trừ thuế cho cá nhân kinh doanh (tương tự như các đơn vị khấu trừ thu nhập đang thực hiện). Trong khi đó, việc chuyển dữ liệu chứng từ khấu trừ thuế với khối lượng lớn (hàng triệu chứng từ mỗi năm) sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.
5. Doanh thu tính thuế khấu trừ
Điều 4.2.d Dự thảo quy định doanh thu tính thuế là số tiền bán hàng hoá, dịch vụ mà sàn TMĐT thu hộ từ người mua. Quy định này được hiểu là doanh thu của người bán sẽ là tổng số tiền mà người mua trả. Tuy nhiên, quy định này là không phù hợp. Mỗi giao dịch được thực hiện qua sàn TMĐT là bao gồm nhiều sản phẩm/dịch vụ đồng thời, chẳng hạn: sản phẩm/dịch vụ của người bán; dịch vụ vận chuyển (của đơn vị vận chuyển độc lập); dịch vụ TMĐT của sàn; dịch vụ thanh toán… Số tiền người mua trả cho giao dịch là tổng số tiền trả cho các dịch vụ trên, chứ không chỉ trả cho mình người bán. Do đó, để đảm bảo tính hợp lý, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng doanh thu tính thuế là số tiền sàn TMĐT dự kiến thanh toán cho cá nhân kinh doanh.
6. Hiệu lực thi hành
Dự thảo dự kiến có hiệu lực từ tháng 01/4/2025. Theo phản ánh của doanh nghiệp, thời điểm có hiệu lực là tương đối gấp gáp (chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa), trong khi văn bản vẫn đang trong giai đoạn dự thảo. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này là chưa phù hợp vì thời gian có hiệu lực tương đối rất gấp gáp, trong khi doanh nghiệp cần thời gian để xây dựng hệ thống công nghệ thông tin, nhân sự và tuyên truyền cho người bán trên sàn. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo lùi thời hạn hiệu lực của quy định đến ngày 01/07/2025.
7. Biểu mẫu
Mẫu số 01/BKNT-TMĐT quy định về Bảng kê chi tiết số tiền nộp thuế. Biểu mẫu này không cần thiết vì thông tin nộp thuế đã được ghi nhận trên hệ thống điện tử của cơ quan thuế khi sàn TMĐT nộp tiền thuế hàng tháng. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ biểu mẫu này để tránh trùng lặp thông tin, đơn giản hoá thủ tục cho doanh nghiệp.
Mẫu số 01-1/BK-CNKD-TMĐT quy định Phụ lục Bảng kê chi tiết số tiền thuế đã khấu trừ. Đề nghị cơ quan soạn thảo hướng dẫn điền thông tin tại cột số 06 trong trường hợp một người bán kinh doanh nhiều ngành nghề (ví dụ phân phối hàng hóa và kinh doanh dịch vụ ăn uống).
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Nghị định quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.