VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 144/2017/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công
VCCI_Góp ý Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Công Thương năm 2025
VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Quản lý thuế về tạm hoãn xuất cảnh
Kính gửi: Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 13210/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc lấy ý kiến góp ý đối với Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết khoản 9 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán; Luật kế toán; Luật kiểm toán độc lập, Luật ngân sách nhà nước; Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật quản lý thuế; Luật thuế thu nhập cá nhân; Luật dự trữ quốc gia; Luật xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sau khi tham khảo ý kiến các doanh nghiệp và một số chuyên gia, có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Quyết định hành chính về quản lý thuế
Điều 1 của Dự thảo quy định cụ thể về ngưỡng nợ và thời gian nợ thuế đối với các đối tượng khác nhau, trong đó Khoản 1 áp dụng đối với cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh và Khoản 2 áp dụng đối với cá nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Theo đó, đối với cá nhân, chỉ cần đang nợ thuế quá thời hạn và số tiền là đã bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, mà không cần có quyết định hành chính về quản lý thuế. Còn đối với doanh nghiệp thì biện pháp tạm hoãn xuất cảnh với người đại diện theo pháp luật chỉ áp dụng sau khi có quyết định hành chính về quản lý thuế. Việc quy định khác nhau như vậy là chưa thực sự phù hợp, với các lý do sau:
Thứ nhất, điều này chưa thực sự bình đẳng. Cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh hay doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đều là người nộp thuế và đều chịu các quy định về quản lý thuế tương tự như nhau. Các cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh cũng có thể bị xử lý vi phạm về thuế và bị áp quyết định hành chính về quản lý thuế tương tự như doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Thứ hai, việc xác định một cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh nợ thuế như tại Khoản 1 hoàn toàn dựa trên thông tin lưu trữ nội bộ tại cơ quan thuế, chứ chưa phải là một quyết định hành chính thể hiện ra trước người dân. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, không ít trường hợp thông tin lưu trữ tại cơ quan thuế có sai sót, nhầm lẫn hoặc không đầy đủ dẫn đến việc xác định nghĩa vụ thuế chưa thực sự chính xác. Chỉ khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra về thuế và ra quyết định hành chính thuế thì các thông tin này mới được tra soát, đối chiếu và xem xét kỹ lưỡng theo một trình tự thủ tục đầy đủ. Kết quả của trình tự này là quyết định hành chính thuế trên đó có thể hiện số tiền nợ thuế và thời hạn nợ. Việc hạn chế quyền đi lại (xuất cảnh) của người dân là một biện pháp khá nghiêm trọng, do đó cần được thực hiện theo trình tự thủ tục chặt chẽ hơn, tức là cần có một quyết định hành chính về quản lý thuế do người có thẩm quyền ký ban hành để tránh những nhầm lẫn không đáng có.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi Điều 1 theo hướng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh chỉ áp dụng sau khi đã có quyết định hành chính về quản lý thuế.
- Trường hợp doanh nghiệp không còn hoạt động
Điều 1.3 quy định trường hợp doanh nghiệp không còn hoạt động mà chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế thì người đại diện theo pháp luật bị tạm hoãn xuất cảnh bất kể giá trị số tiền thuế là bao nhiêu. Trên thực tế, có những trường hợp số thuế còn thiếu rất nhỏ, phát sinh sau khi doanh nghiệp đã dừng hoạt động (như lệ phí môn bài). Với giá trị nhỏ như vậy thì chi phí để hành thu sẽ lớn hơn so với số tiền thu được. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định về ngưỡng số tiền thuế còn thiếu trong trường hợp này, ví dụ 3 triệu đồng (bằng với mức lệ phí môn bài cao nhất trong một năm).
- Về số tiền nợ thuế
Nhiều doanh nghiệp phản ánh với VCCI rằng ngưỡng số tiền nợ thuế để áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh được quy định tại Điều 1 của Dự thảo, 10 triệu đồng đối với cá nhân và 100 triệu đồng đối với doanh nghiệp, là quá thấp.
Hiện nay, để cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, cơ quan thuế có rất nhiều các biện pháp như trích tiền từ tài khoản ngân hàng, thông báo hoá đơn không còn giá trị sử dụng, kê biên và bán đầu giá tài sản… Chúng tôi cho rằng cần ưu tiên áp dụng các biện pháp này, đặc biệt là biện pháp trích tiền từ tài khoản ngân hàng hoặc bên thứ ba khác, trước khi tính đến các biện pháp hạn chế quyền đi lại của người dân. Theo thông tin từ họp báo của Tổng cục thuế ngày 25/4/2024¹, ngành thuế đang nắm dữ liệu hàng triệu tài khoản ngân hàng của người nộp thuế. Với sự phát triển rất nhanh của thanh toán không dùng tiền mặt và liên kết dữ liệu như hiện nay, biện pháp cưỡng chế trích tiền từ tài khoản ngân hàng trở nên rất hữu hiệu và nên được tập trung triển khai trong thời gian tới.
Khi biện pháp trích tiền từ tài khoản ngân hàng được thực hiện rốt ráo và mang lại hiệu quả, thì các biện pháp hạn chế quyền khác như thông báo hoá đơn không còn giá trị sử dụng hay cấm xuất cảnh chỉ nên được áp dụng cho những trường hợp rất hoặc đặc biệt nghiêm trọng với số tiền nợ thuế lớn.
Trong đa số trường hợp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đi ra nước ngoài không phải để trốn tránh nghĩa vụ thuế mà là vì công việc giao dịch làm ăn với đối tác. Các giao dịch như vậy có thể giúp doanh nghiệp có doanh thu để từ đó có khả năng tiếp tục đóng thuế cho Nhà nước. Nếu áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh trên phạm vi rộng có thể gây tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại về kinh tế nói chung và làm giảm số thu về dài hạn cho ngân sách.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc nâng ngưỡng số tiền nợ thuế để phải áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh lên mức 1 tỷ đồng đối với doanh nghiệp và 200 triệu đồng đối với cá nhân.
- Đối với người Việt Nam xuất cảnh để định cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
Đối với các trường hợp người Việt Nam xuất cảnh để định cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài đã được quy định tại Điều 66.1 của Luật Quản lý thuế (sửa đổi, bổ sung năm 2024) thì Dự thảo chưa có quy định về ngưỡng số tiền và thời gian nợ thuế. Điều này không rõ sẽ được hiểu như thế nào. Liệu các trường hợp này không bị áp dụng quy định tạm cấm xuất cảnh hay sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh bất kể giá trị số tiền thuế còn nợ là bao nhiêu. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định để làm rõ.
- Dỡ bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh
Điều 2.3 của Dự thảo quy định về việc cơ quan thuế ban hành văn bản về việc tạm hoãn xuất cảnh gửi cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh. Tuy nhiên, Dự thảo lại chưa có quy định về việc dỡ bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Điều này có thể là khoảng trống pháp lý gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Có thể kể đến một số vấn đề như sau:
– Khi nào thì biện pháp tạm hoãn xuất cảnh bị dỡ bỏ? Liệu người nợ thuế cần phải nộp hết toàn bộ số thuế nợ theo quyết định hành chính về quản lý thuế hay chỉ cần nộp một phần thuế sao cho số nợ nằm dưới ngưỡng quy định tại Nghị định này hay bất kỳ một mức nào khác?
– Sau khi nộp thuế thì bao lâu sau sẽ được dỡ bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh? Đề nghị cơ quan soạn thảo quy định theo hướng ngay khi người nợ thuế đã nộp thuế thì biện pháp tạm hoãn xuất cảnh được dỡ bỏ ngay lập tức.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung này để tránh vướng mắc khi thực hiện Nghị định.
- Thủ tục nộp thuế, tạm ứng nộp thuế ngay tại cửa khẩu
Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu cơ chế cho phép người bị tạm hoãn xuất cảnh được nộp thuế hoặc nộp một số tiền tạm ứng tương đương số thuế nợ ngay tại cửa khẩu. Biện pháp này giúp Nhà nước sớm thu được tiền, đồng thời cũng tạo điều kiện cho người nợ thuế có thể ngay lập tức được dỡ bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh để được đi lại bình thường.
Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết khoản 9 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán; Luật kế toán; Luật kiểm toán độc lập, Luật ngân sách nhà nước; Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật quản lý thuế; Luật thuế thu nhập cá nhân; Luật dự trữ quốc gia; Luật xử lý vi phạm hành chính.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.
¹https://vnexpress.net/nganh-thue-nam-du-lieu-ngan-hang-cua-hon-120-trieu-ca-nhan-4738950.html