Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ luật dân sự và định hướng cải cách
Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp đồng
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ
PHÁP LÝ VỀ XÁC LẬP HỢP ĐỒNG
TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN – Phó trưởng khoa Kinh tế – Luật,
Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Có những nét tương đồng rất cơ bản giữa Việt Nam và các
nước theo văn hoá pháp lý romano -germanic trong việc xây dựng chế độ pháp lý
về hợp đồng và, nói riêng, các giải pháp cho bài toán về điều kiện xác lập hợp
đồng.
Có
những nét tương đồng rất cơ bản giữa Việt Nam và các nước theo văn hoá pháp lý
romano – germanic trong việc xây dựng chế độ pháp lý về hợp đồng và, nói riêng,
các giải pháp cho bài toán về điều kiện xác lập hợp đồng. Pháp luật hợp đồng của
Việt Nam đã tiếp nhận và vận dụng khá nhiều khái niệm và chế định đặc trưng của
hệ thống đó (1). Các thành tựu của văn hoá pháp lý Anh – Mỹ cũng được tiếp nhận
và xuất hiện trong luật Việt Nam như là những yếu tố đóng góp bổ sung vào việc
hoàn thiện hệ thống pháp lý (2). Tuy nhiên, do được xây dựng trong một hệ thống
tư duy mang tính thực dụng cao, nhiều điểm cơ bản trong lý thuyết hợp đồng
trong luật học Anh – Mỹ không phù hợp với tư duy pháp lý truyền thống và đạo
đức truyền thống Việt Nam. Bởi vậy, việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam
nên được thực hiện chủ yếu trên cơ sở xem xét, so sánh, tham khảo và vận dụng
có chọn lọc các thành tựu của hệ thống romano – germanic.
Trong
khuôn khổ xây dựng Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, người làm luật phân chia các
điều kiện xác lập hợp đồng thành hai nhóm: các điều kiện chung, áp dụng cho tất
cả các loại giao dịch, trong đó có hợp đồng, và các điều kiện riêng đối với hợp
đồng. Về phương diện khoa học luật, có thể tiếp cận các điều kiện này theo một
góc nhìn khác, cho phép phân chia các điều kiện thành hai nhóm: nội dung và
hình thức.
1. Điều kiện về nội dung
1.1. Ý chí
1.1.1.
Sự tồn tại của ý chí
Đề
nghị và chấp nhận đề nghị. Điều chắc chắn là không thể có hợp đồng một khi ít
nhất một bên không hề mong muốn giao kết. Sự gặp gỡ của ý chí là điều kiện để
một hợp đồng được xác lập. Thế nhưng, có điều kiện còn tiên quyết hơn nữa, đó
là ý chí giao kết phải hiện hữu. Luật của Pháp, của Anh – Mỹ, nói chung, của
nhiều nước tiền tiến thừa nhận rằng sự hiện hữu của ý chí chỉ được ghi nhận một
khi nó được bộc lộ ra ngoài và ở trong tình trạng có thể được người khác nhận
biết. Luật Việt Nam hiện hành, vận dụng kinh nghiệm của các nước, có xây dựng
các khái niệm về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để mô tả và điều
chỉnh quá trình bộc lộ đi đến sự gặp gỡ ý chí của các bên trong quan hệ kết
ước.
Tuy
nhiên, luật Việt Nam không thừa nhận tính pháp lý của đề nghị giao kết ra công
chúng (public offer). Điều đó cũng có nghĩa rằng, ngay cả trong trường hợp đề
nghị giao kết đã có đầy đủ nội dung của một hợp đồng và có ghi rõ thời hạn được
duy trì để chờ được chấp nhận, người đề nghị vẫn có quyền huỷ bỏ hoặc rút lại
đề nghị mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý, nếu đề nghị này được gửi rộng
rãi cho mọi người chứ không nhắm đến một địa chỉ nào xác định. Với giải pháp
này, người làm luật tỏ ra quá nuông chiều, dễ dãi đối với người đề nghị chuyên
nghiệp, tức là các thương nhân, trong mối quan hệ giao tiếp với người tiêu
dùng: điều này không có lợi cho việc xây dựng, phổ biến ý thức về trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp (CSR)(3).
Riêng
đối với đề nghị giao kết có địa chỉ xác định, thì luật có vẻ muốn buộc người đề
nghị gìn giữ cam kết trong một thời hạn nào đó. Bằng chứng là có quy định chỉ
thừa nhận việc rút lại hoặc thay đổi đề nghị trong trường hợp người được đề
nghị nhận được thông báo rút lại hoặc thay đổi đề nghị trước hoặc cùng thời
điểm với việc nhận lại đề nghị. Nhưng thái độ của người làm luật không dứt
khoát; bởi vậy, người ta không biết làm thế nào để giải thoát người đề nghị
trong trường hợp người được đề nghị đã nhận được một đề nghị không có thời hạn
xác định, còn thông báo rút lại đề nghị thì chưa tới nơi…
Mặt
khác, một khi đề nghị có nêu rõ thời hạn hiệu lực, luật Việt Nam chỉ dự kiến
khả năng yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp
đồng với người thứ ba trong thời hạn đề nghị (Điều 390 khoản 2). Điều đó có
nghĩa rằng, nếu bên đề nghị không giao kết với ai khác nhưng cũng không muốn
giao kết với bên được đề nghị nữa, thì cũng không có quyền hủy bỏ đề nghị và,
bởi vậy, một khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị trong thời hạn, bên đề nghị
có thể bị đặt vào tình trạng buộc phải giao kết (?). Luật chưa rõ ở điểm này.
1.1.2.
Ý chí bộc lộ hay ý chí tiềm ẩn?
Ý chí
thực: cũng như ở Pháp, người làm luật Việt Nam chấp nhận quy tắc theo đó, trong
trường hợp hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì phải dựa vào ý chí chung
của các bên để giải thích hợp đồng (Điều 409 khoản 1). Nguyên tắc tôn trọng ý
chí thực còn được nhấn mạnh tại khoản 7 của điều luật: trong trường hợp có sự
mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng, thì
ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng (4).
Vấn đề
là làm thế nào để xác định ý chí thực của các bên? Tất nhiên luật không thể
vạch ra các tiêu chí khách quan mà người ta phải dựa vào để nhận dạng ý chí
thực: nếu người làm luật xây dựng một bộ tiêu chí như thế, thì cái gọi là ý chí
thực, suy cho cùng, lại là ý chí được người làm luật gọi là thực, chứ chưa hẳn
là ý chí đích thực của các bên. Giải pháp tốt nhất là thừa nhận cho thẩm phán
quyền dựa vào các chứng cứ được trưng ra để nhận dạng ý chí thực, tuỳ theo
trường hợp.
Phạm
vi áp dụng giải pháp: luật viết, khi giải quyết vấn đề ý chí bộc lộ hay ý chí
tiềm ẩn, chỉ ghi nhận trường hợp cần giải thích hợp đồng, nghĩa là khi có sự
tranh cãi về nội dung của một hợp đồng có thật. Thực ra, việc xác định ý chí
chung để dùng làm căn cứ giải thích hợp đồng sẽ trở nên vô nghĩa một khi theo ý
chí chung của các bên thì sẽ không có hợp đồng. Bởi vậy, cần có một quy định
dựa vào ý chí chung của các bên áp dụng cho trường hợp có tranh cãi về sự tồn
tại hay không tồn tại của hợp đồng.
Vả
lại, có những trường hợp theo đúng ý chí chung, hoàn toàn tự nguyện, thì chỉ có
một hợp đồng bất bình đẳng mà bên ở vị trí bất lợi thường cũng là bên thua kém
về thực lực kinh tế và kinh nghiệm trong giao kết. Đó không hẳn là một loại
giao dịch xác lập dựa trên sự lừa dối của một bên đối với bên kia. Đơn giản,
bên mạnh hơn và có kinh nghiệm không tội vạ gì chủ động đề nghị ràng buộc mình
vào những nghĩa vụ phiền toái; còn bên yếu hơn và non kinh nghiệm, thì không
biết, không nghĩ ra được phải làm gì để có được một giao kèo tốt nhất cho mình.
Trong
trường hợp này, người làm luật ở các nước tiên tiến thường chủ động can thiệp
bằng cách ràng buộc bên mạnh hơn vào những nghĩa vụ đương nhiên đối với bên kia
(5). Nghĩa vụ kết ước loại này có thể hình thành hoàn toàn không theo ý chí
chung của các bên; nhưng sự áp đặt là cần thiết để tái lập sự cân bằng vốn đã
mất đi do sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và trình độ hiểu biết chuyên môn
của các bên giao kết. Ví dụ điển hình là các nghĩa vụ thông tin, bảo đảm an
toàn của nhà sản xuất, cung ứng, người hoạt động chuyên nghiệp trong mối quan
hệ giao kết với người tiêu dùng bình thường.
1.2. Sự xác định
Luật
thực định: Có vẻ như luật Việt Nam cũng thừa nhận rằng các thoả thuận kết ước
phải xác định rõ ràng các đối tượng mới được coi là có giá trị. Chẳng hạn, hợp
đồng mua bán phải có tài sản bán được chỉ định rõ và giá bán xác định hoặc có
thể được xác định.
Ở các
nước tiên tiến, việc giao kết hợp đồng có thể có đối tượng là tài sản sẽ có
trong tương lai. Loại hợp đồng này được xếp thành hai nhóm:
i.
Hoặc, đó là hợp đồng có đối tượng giao hoán, được người La Mã gọi là venditio
rei speratae (bán vật được trông đợi): các bên nhất trí về việc giao kết liên
quan đến một vật chưa xuất hiện, nhưng các nghĩa vụ chỉ phát sinh và được thực
thi một khi vật được trông đợi xuất hiện và có đầy đủ tính chất, phẩm chất như
được giao kết (6).
ii.
Hoặc, đó là hợp đồng may rủi, được người La Mã gọi là venditio spei (bán niềm
hy vọng): các bên giao kết một hợp đồng kiểu lời ăn lỗ chịu, theo đó nghĩa vụ
sẽ được thực thi, bất kể kết quả được trông đợi như thế nào; chẳng hạn, mua một
vụ đánh bắt cá, người mua phải trả đủ tiền theo cam kết, dù vụ đánh bắt cuối
cùng không cho được một con cá nào.
Trong
mọi trường hợp, việc thực hiện nghĩa vụ của một bên đối với bên kia chỉ diễn ra
một khi vấn đề tồn tại hay không tồn tại của vật đã ngã ngũ: người mua nhà đang
xây dựng chỉ trả tiền mua trên cơ sở nghiệm thu (thậm chí từng phần) đối với
công trình xây dựng; người mua một kết quả đánh bắt chỉ trả tiền theo cam kết
sau khi vụ đánh bắt đã hoàn tất;…
Trong
luật Việt Nam, việc giao kết hợp đồng đối với các tài sản sẽ có trong tương lai
không được điều chỉnh rõ ràng trong luật thực định (7). Bởi vậy, việc mua bán
loại tài sản này đang diễn ra khá phức tạp. Đặc biệt, tình trạng các doanh
nghiệp không có thực lực tài chính lợi dụng việc mua bán tài sản sẽ có trong
tương lai để tiến hành vay mượn vốn trong dân cư nhằm thực hiện dự án đầu tư
đang có dấu hiệu bùng phát trong mấy năm gần đây, và các tranh chấp liên quan
đang gây đau đầu cho các thẩm phán (8).
Hướng
hoàn thiện: Việc mua bán may rủi có lẽ chỉ nên được thừa nhận trong trường hợp
người mua là thương nhân, nói chung là người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh
vực liên quan. Với kinh nghiệm làm ăn và khả năng tài chính cho phép chịu đựng
được rủi ro, người này có thể tự mình quyết định chấp nhận hay không chấp nhận
giao kết.
Riêng
việc mua bán vật được trông đợi phải được điều chỉnh một cách chi tiết đến mức
có thể được để ngăn ngừa sự lừa đảo, gian lận và nhất là việc vay mượn vốn của
người khác trong tư thế của kẻ mạnh, nấp dưới hình thức mua bán tài sản đang
hình thành. Chẳng hạn, phải có quy định cấm người bán hàng chuyên nghiệp thu
tiền trước của người mua theo mức quá chênh lệch so với giá trị của tài sản mua
đang hình thành…
1.3. Động cơ
1.3.1.
Tổng quan
Tính
hiện thực của động cơ giao kết: Mọi hành vi thực hiện theo ý chí đều được thôi
thúc bởi một hoặc nhiều lợi ích, vật chất hoặc tinh thần. Sự theo đuổi lợi ích,
trong trường hợp việc này được thực hiện trong khuôn khổ quan hệ hợp đồng, được
gọi trong học thuyết là động cơ giao kết hợp đồng.
Tính
pháp lý của động cơ giao kết: Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng bao hàm quyền
tự do giao kết theo một động cơ nào đó. Vấn đề đặt ra là nếu việc giao kết hợp
đồng có động cơ trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì liệu giá trị pháp lý
của hợp đồng có bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong trường hợp tất cả các điều kiện
khác, về nội dung và hình thức, liên quan đến việc xác lập hợp đồng, đã có đủ?
1.3.2.
Động cơ giao kết và giá trị của hợp đồng
Giải
pháp trong luật của các nước: Luật của Pháp và luật Anh – Mỹ có những lựa chọn
rất khác biệt về giải pháp cho bài toán nhận dạng động cơ giao kết.
Về
phương diện học thuyết có thể hình dung một hệ thống pháp lý về nghĩa vụ dựa
vào một quy tắc đơn giản mang tính nguyên tắc: nghĩa vụ được xác lập, vì chủ
thể đã cam kết một cách tự nguyện. Người ta không cần và cũng không có quyền
tìm hiểu tại sao chủ thể lại muốn xác lập nghĩa vụ. Nói khác đi, xác lập nghĩa
vụ được coi là một hành vi trừu tượng (abstract act).
Thực
ra, không có hệ thống pháp lý tiêu biểu nào áp dụng lý thuyết nghĩa vụ trừu
tượng như là giải pháp nguyên tắc.
Trong
luật của Pháp có lý thuyết về nguyên nhân (cause) của hợp đồng (9). Tư tưởng
chủ đạo là: mọi nghĩa vụ kết ước đều phải có nguyên nhân và nguyên nhân phải
không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì nghĩa vụ kết ước mới có giá
trị. Bởi vậy, hợp đồng mua bán một căn nhà có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu có đủ
bằng chứng cho thấy việc mua nhà nhằm mục đích xây dựng kho chứa hàng lậu thuế
hoặc nhà chứa mại dâm.
Cũng
trong khuôn khổ phát triển lý thuyết về nguyên nhân của hợp đồng, luật của Pháp
thừa nhận cho thẩm phán quyền xác định lại tên gọi của hợp đồng cho phù hợp với
tính chất thực của nó: một hợp đồng mua bán có thể được đổi tên thành hợp đồng
dịch vụ,…
Luật
Anh – Mỹ, về phần mình, xây dụng một lý thuyết phức tạp xoay quanh một khái
niệm rất đặc thù, gọi là consideration (vật đánh đổi). Tư tưởng chủ đạo là: một
vật có giá trị kinh tế được chuyển giao, một việc mang lại lợi ích kinh tế được
thực hiện phải nhằm đổi lấy một vật, một việc khác; một lời hứa được giữ chỉ vì
một lời hứa khác cũng phải được giữ: lời hứa này là vật đánh đổi của lời hứa
kia. Từ quan niệm đó, luật Anh – Mỹ có quan niệm đối trọng về “lời hứa suông”
(bare promise), là một lời hứa được đưa ra không nhằm đổi lấy một lời hứa khác
của người đối tác. Lời hứa suông, trong luật Anh – Mỹ, không có hiệu lực pháp
luật trừ trường hợp lập một chứng thư long trọng (deed) một người hứa tặng cho
một người khác một tài sản; người được hứa tặng cho không thể yêu cầu buộc
người hứa tặng cho chuyển giao tài sản cho mình.
Vật
đánh đổi có thể được xếp thành ba nhóm: sẽ được (executory), được (executed)
hoặc đã đi vào quá khứ (past). Vật đánh đổi sẽ được là một lời hứa về một việc
sẽ được thực hiện trong tương lai, ví dụ, sẽ trả một số tiền để đổi lấy một tài
sản sẽ được giao. Vật đánh đổi được là vật được giao, việc được thực hiện để
đổi lấy một vật, một việc khác. Vật đánh đổi đã đi vào quá khứ là một việc đã
làm hoặc một lời hứa đã được đưa ra không với ý định kết ước. Các vật đánh đổi
sẽ được và được là những vật đánh đổi có giá trị. Vật đánh đổi đã đi vào quá
khứ không có giá trị: A cứu B khỏi chết đuối; sau khi được vớt lên, B hứa sẽ
thưởng cho A một số tiền; cuối cùng, B không thưởng; A không thể kiện B để yêu
cầu buộc B trả thưởng, bởi việc A cứu B – vật đánh đổi – là việc đã rồi và khi
thực hiện việc đó, A không hề được thôi thúc bởi một lời hứa thưởng. Tương tự,
khi một người hứa bảo đảm việc trả một món nợ đã được giao kết, thì lời hứa đó
không trói buộc người hứa, bởi món nợ đã được giao kết và ở thời điểm giao kết,
không ai được động viên bởi một lời hứa bảo lãnh như thế.
Đáng
chú ý là những người làm luật Anh – Mỹ không bận tâm đến việc tìm hiểu động cơ
giao kết hợp đồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với giải pháp cho vấn đề xác định
ý chí giao kết được chấp nhận trong hệ thống này.
Sự lựa
chọn của Việt Nam: BLDS có nhắc đến mục đích giao dịch (BLDS Điều 122 khoản 1)
và quy ước hiểu đó là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác
lập giao dịch đó (Điều 123). Thái độ điều chỉnh mục đích giao dịch có vẻ cũng
rất rõ ràng: nếu giao dịch có mục đích trái pháp luật hoặc trái với đạo đức xã
hội, thì có thể bị tuyên bố vô hiệu (Điều 128).
Vấn đề
là người làm luật chắc chắn là có quan tâm đến mục đích chung mà hai bên cùng
theo đuổi, nhưng không chắc có quan tâm đến mục đích
riêng của mỗi bên, thường rất khác biệt. Mà, suy cho cùng, trường hợp các
bên giao dịch cùng nhắm tới mục tiêu chung không phổ biến lắm (10): khi giao
kết hợp đồng bán nhà, người bán nhắm đến một số tiền cho phép thực hiện một dự
tình gì đó; còn người mua cần có căn nhà, để ở hoặc để bán lại, để cho thuê…
Nếu chỉ có một bên theo đuổi mục đích phi pháp, thì liệu giao dịch có thể bị
tuyên bố vô hiệu?
Vả
lại, mục đích giao dịch có thể có nhiều cấp độ: mục tiêu trước mắt, mục tiêu
gần và mục tiêu tối hậu. Chẳng hạn, một người đề nghị thợ rèn mài sắc cho mình
một con dao để làm vũ khí cướp tài sản của người khác. Mục tiêu trước mắt của
người thuê dịch vụ khi giao kết hợp đồng là có được con dao sắc, còn mục tiêu
tối hậu là có được công cụ để thực hiện vụ cướp. Chính mục tiêu tối hậu thôi
thúc người này giao kết hợp đồng: mục tiêu ấy tạo ra động lực giao kết của một bên.
Dù
người làm luật không có thái độ rõ ràng, những người đối tác trong thực tiễn
giao dịch Việt Nam luôn chú ý đến động cơ giao dịch của nhau và người giao dịch
nghiêm túc luôn tỏ ra dè dặt, thậm chí có thể có phản ứng không thuận lợi, một
khi biết rằng người đối tác có động cơ giao dịch không chính đáng. Ví dụ, người
thợ rèn có thể tìm cách từ chối rèn một con dao, khi biết rằng người yêu cầu
gia công đang chuẩn bị một công cụ để thực hiện một vụ giết người.
Hẳn
người làm luật nên có sự quan tâm nhất định đến việc điều chỉnh động cơ giao
kết hợp đồng của các bên, nhất là trong điều kiện đối với người Việt, khía cạnh
đạo đức của giao tiếp xã hội luôn được chú trọng.
Lý
thuyết vật đánh đổi có vẻ không phù hợp với tư duy pháp lý của người Việt Nam:
nó quá thực dụng và duy lý. Tuy nhiên, lý thuyết về nguyên nhân của nghĩa vụ
kết ước cũng có nhiều điểm quá gò bó mà nếu áp dụng không khéo, có thể dẫn đến
việc vô hiệu hoá một cách tuỳ tiện các hợp đồng được giao kết hợp pháp (11).
Sự lựa
chọn tốt nhất đối với Việt Nam có lẽ là: một mặt, động cơ giao kết hợp đồng,
tức là mục tiêu tối hậu, của bên này và bên kia phải không được trái luật hoặc
trái đạo đức xã hội, thì hợp đồng mới có giá trị; tuy nhiên, nếu một bên hoàn
toàn ngay tình, nghĩa là không biết về động cơ giao kết trái pháp luật, trái
đạo đức của bên kia, thì hợp đồng không vô hiệu vì có một bên giao kết với động
cơ không chính đáng. Mặt khác, động cơ giao kết hợp đồng được suy đoán là hợp
pháp và hợp đạo đức, bởi vậy ai là người cho rằng bên giao kết có động cơ trái
luật, phi đạo đức trong giao kết hợp đồng, thì phải chứng minh điều cáo buộc
của mình.
1.4. Năng lực giao kết
Tình
trạng thoát quyền thực tế của người chưa thành niên: rủi ro tiềm ẩn đối với
người thứ ba. Cũng như luật của nhiều nước, luật Việt Nam lấy mốc đủ 18 tuổi để
xác định sự thành niên của cá nhân. Luật hiện hành nói rằng trên nguyên tắc,
người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ có thể tự mình xác
lập các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Cá biệt, người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch mà không đòi hỏi
có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Mượn ngôn ngữ của luật học Pháp, ta nói rằng người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản là người được thoát quyền (emancipé) trong luật
Việt Nam và sự thoát quyền (émancipation) đương nhiên một khi đương sự có tài
sản, mà không cần bản án của Toà án.
Có thể
thấy ngay tính chất mong manh của sự thoát quyền đương nhiên này: đương sự được
thoát quyền chỉ vì có tài sản; vậy, nếu tài sản không còn, kể cả do nguyên nhân
khách quan, thì sự thoát quyền cũng chấm dứt. Một người 16 tuổi bán căn nhà của
mình cho một người khác; người mua giao trước cho người bán 1/3 số tiền mua
nhà; nhà bị cháy do rủi ro, tiền bán nhà nhận trước đã được người bán tiêu pha
hết; không còn tài sản, người bán trở lại tình trạng chưa thành niên không
thoát quyền; người mua có thể làm gì? Chỉ có thể nói rằng, chế định thoát quyền
đương nhiên trong luật Việt Nam hiện hành chưa được xây dựng một cách có cân
nhắc, nghiêm túc và do đó, cần được hoàn thiện. Và khi hoàn thiện chế định đó,
thì nên tham khảo kinh nghiệm của người Pháp và người Đức (12).
2. Điều kiện về hình thức
Điều
kiện để có giá trị và điều kiện về chứng cứ. Luật học các nước, khi giải quyết
vấn đề điều kiện về hình thức của hợp đồng,
thường phân chia các điều kiện này hai thành loại, hay còn gọi là hai cấp độ.
Có
trường hợp luật quy định rằng, hợp đồng phải được xác lập theo một hình thức
nào đó, thì mới có giá trị. Với quy định này, thì hợp đồng được xác lập mà
không tuân thủ điều kiện về hình thức đòi hỏi, thì có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Chẳng hạn, nếu người làm luật nói rằng hợp đồng thế chấp phải được lập thành
văn bản, thì việc thế chấp giao kết bằng lời nói là vô hiệu.
Cũng
có trường hợp luật quy định rằng hợp đồng giao kết theo hình thức nào cũng được,
tuỳ thoả thuận giữa các bên; nhưng để chứng minh nội dung cụ thể của hợp đồng,
thì chỉ có thể dùng các phương tiện chứng minh thoả mãn điều kiện nào đó do
pháp luật quy định. Chẳng hạn, hợp đồng vận chuyển, trên nguyên tắc, được giao
kết bằng việc trao đổi sự ưng thuận, nhưng nội dung chủ yếu của hợp đồng phải
được chứng minh bằng vé. Bởi vậy, các tranh cãi về giá vận chuyển phải dựa vào
vé để giải quyết; nhưng chỉ cần có đủ bằng chứng cho thấy có sự ưng thuận giữa
hai bên về việc giao kết hợp đồng vận chuyển, thì các nghĩa vụ theo hợp đồng đã
phát sinh và ràng buộc hai bên, chẳng hạn, người vận chuyển có nghĩa vụ thông
tin, bảo hiểm, hành khách có nghĩa vụ tôn trọng các nội quy trên phương tiện
vận chuyển (13)…
Điều
kiện có giá trị và điều kiện kiện đối kháng. Luật có thể quy định rằng các bên
giao kết hợp đồng phải thực hiện một thủ tục nào đó, thường là đăng ký hợp đồng
tại một nơi được chỉ định, thì mới được coi là tồn tại và phát sinh hiệu lực
đối với người thứ ba. Chẳng hạn, trong luật của Pháp, việc mua bán bất động
sản, trên nguyên tắc, được xác lập ở thời điểm ý chí của các bên gặp nhau; tuy
nhiên, hợp đồng chỉ đối kháng được với người thứ ba sau khi hoàn tất thủ tục
đăng ký công bố.
Trong
trường hợp thủ tục này không được thực hiện, thì hợp đồng vẫn có giá trị; nhưng
nó chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với hai bên, không ràng buộc được người thứ
ba, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc buộc phải biết sự tồn tại của hợp
đồng ấy.
Sự lựa
chọn của Việt Nam. Không như luật của nhiều nước, luật Việt Nam không xây dựng
giải pháp nguyên tắc mang tính luật bổ khuyết (suppletive law) cho vấn đề hình
thức giao kết hợp đồng. Theo BLDS (Điều 401
khoản 1), hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao
kết bằng một hình thức nhất định. Vậy nghĩa là, nếu luật không có quy định gì
khác và nếu các bên cũng không có thoả thuận gì đặc biệt, thì… không ai biết
hợp đồng được giao kết dưới hình thức nào.
Lẽ ra
người làm luật phải tỏ ra dứt khoát, chẳng hạn, nếu luật không bắt buộc, thì
hợp đồng được giao kết ngay từ thời điểm trao đổi sự ưng thuận giữa hai bên và
sự trao đổi ấy có thể được ghi nhận dưới bất kỳ hình thức bộc lộ nào của ý chí
được chấp nhận theo tập quán giao dịch. Đọc Điều 401 khoản 1, dễ có cảm giác
rằng có sự lẫn lộn trong suy nghĩ của người làm luật giữa các khái niệm điều
kiện hình thức để có giá trị và điều kiện hình thức về chứng cứ.
Thái độ
của người làm luật đối với sự vi phạm hình thức giao kết cũng không rõ ràng. Có
lúc, người làm luật khẳng định “trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực,
phải đăng ký hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo các quy định đó” (BLDS Điều
124 khoản 2). Nhưng lúc khác, người làm luật lại tỏ ra dễ dãi: “hợp đồng vi
phạm về hình thức không bị vô hiệu trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
(Điều 401 khoản 2); nói khác đi, luật phải nói rằng hợp đồng được giao kết theo
một hình thức nào đó mới có giá trị, thì hợp đồng mới bị vô hiệu trong trường
hợp không được giao kết theo hình thức đó. Tất nhiên, thực tiễn sẽ có xu hướng
tận dụng sự “cởi mở” của người làm luật; điều đó cũng có nghĩa rằng các quy
định mang tính mệnh lệnh mà người làm luật nặn óc suy nghĩ để vạch ra, liên
quan đến hình thức của hợp đồng, có nguy cơ trở nên vô tác dụng. Vậy thì rốt
cuộc, xã hội bỏ chi phí cho việc xây dựng những điều luật ấy để làm gì?
Chú thích:
(1)
Ví dụ: khái niệm và chế độ pháp lý về pháp nhân, nguyên tắc trung thực trong
giao kết hợp đồng hiệu lực ràng buộc của đề nghị giao kết hợp đồng đối với
người đề nghị, tình trạng pháp lý của người mất năng lực hành vi, người bị hạn
chế năng lực hành vi.
(2)
Chẳng hạn, luật học Việt Nam hiện đại chấp nhận khái niệm hợp đồng được xây
dựng trong luật Anh – Mỹ: hợp đồng có thể tác dụng tạo lập nghĩa vụ hoặc chấm
dứt một nghĩa vụ đang tồn tại về hình thức giao kết hợp đồng, người làm luật
Việt Nam có xu hướng đòi hỏi lập văn bản đối với các hợp đồng quan trọng, nhưng
không tỏ ra khắt khe trong các yêu cầu về cấu trúc hình thức văn bản…
(3)
Ngay trong một hệ thống tư duy pháp lý mang tính thực dụng rất cao như ở Mỹ,
người ta cũng xác định đề nghị giao kết hợp đồng ra công chúng là một giao dịch
pháp lý, cho dù luật thừa nhận rằng người đề nghị có quyền rút lại đề nghị bất
kỳ lúc nào mà không phải bồi thường: M. Whincup, Contract law and practice,
Kluwer Law International, London, 1996, tr. 38.
(4)
Luật Anh – Mỹ cho rằng việc tìm kiếm ý chí thực, đặc biệt trong trường hợp có
tranh chấp, là phi thực tế, bởi không ai biết được suy nghĩ trong đầu người
khác; bởi vậy, trong trường hợp có tranh cãi thì thẩm phán chỉ bám lấy ngôn từ
được bộc lộ để giải thích hợp đồng: M. Whincup, Contract law and practice, đd,
tr. 13 và 14.
(5)
Xem, chẳng hạn, trong luật của Pháp: BLDS Điều 1135: sự thoả thuận tạo ra nghĩa
vụ không chỉ đối với phần ý chí được bày tỏ mà còn cả đối với tất cả những quan
hệ phát sinh sau đó tuỳ theo bản chất của nghĩa vụ và phù hợp với lẽ công bằng,
tập quán hoặc luật pháp.
Tương
tự, luật của Anh cũng dự kiến khả năng phát sinh nghĩa vụ bắt buộc theo hợp
đồng trong một số trường hợp, dưới tên gọi “implied terms” tạm gọi là điều
khoản ám chỉ.
(6)
Ví dụ, bán một thiết bị sẽ chế tạo, một ngôi nhà sẽ được xây dựng.
(7)
BLDS, Điều 342 khoản 1, nói về thế chấp tài sản, có quy định: “tài sản thế chấp
cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai”.
(8)
Điển hình là các trường hợp bán căn hộ thuộc các chung cư cao cấp. Luật hiện
hành cho phép nhà đầu tư rao bán căn hộ chưa hình thành sau khi đã xây xong
phần móng. Tuy nhiên, do luật không quy định chi tiết về điều kiện trả tiền
trong hợp đồng bán, nhiều nhà đầu tư đã có những đòi hỏi về trả tiền ứng trước
không tương xứng với tiến độ thực hiện công trình, theo hướng có lợi cho họ. Vô
hình trung, nhà đầu tư có thể bằng cách đó, dùng tiền của người mua, chứ không
phải tiền của mình, để chi phí cho việc xây dựng công trình.
(9)
Có thể xem, chẳng hạn, Ph. Malaurie và L. Aynès, Droit civil – Les obligations,
Cujas, Paris, 1999, tr. 273 và kế tiếp; A. Bénabent, Droit civil – Les
obligations, Montchrestien Paris, 1998, tr . 104 và kế tiếp.
(10)
Một trong những trường hợp điển hình của hợp đồng trong đó các bên có chung mục
tiêu là hợp đồng thành lập công ty.
(11)
Học thuyết pháp lý Pháp phân biệt nguyên nhân của nghĩa vụ (còn gọi là nguyên
nhân khách quan) và nguyên nhân của nghĩa vụ kết ước (còn gọi là nguyên nhân
chủ quan): A. Bénabent, Droit civil – Les obligations, đd, tr. 104. Nguyên nhân
khách quan là một khái niệm phức tạp và duy lý: nó được xây dựng trong khuôn
khổ xác định cấu trúc kinh tế (economic structure) của hợp đồng, chứ không phải
để làm rõ động cơ giao dịch của các bên. Chẳng hạn, trong một hợp đồng song vụ,
nghĩa vụ của bên này có nguyên nhân là nghĩa vụ của bên kia; còn trong hợp đồng
đơn vụ, nguyên nhân của nghĩa vụ gắn với cơ sở của hợp đồng: nghĩa vụ trong hợp
đồng bảo lãnh có nguyên nhân là sự hiện hữu của món nợ được bảo lãnh; nghĩa vụ
trả nợ trong hợp đồng vay có nguyên nhân là việc nhận số tiền vay;…
(12)
Chế độ thoát quyền của người Pháp có lẽ không phù hợp với phong tục tập quán
Việt Nam trong lĩnh vực gia đình. Trong khi đó, luật của Đức có chế độ đại diện
cho người chưa thành niên trong giao dịch dân sự. Theo chế độ này, thì người từ
đủ 7 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có quyền giao kết hợp đồng, nhưng để hợp đồng có
hiệu lực ràng buộc, cần có sự phê chuẩn của người đại diện (thường là cha mẹ) –
BLDS Đức (BGB) Đ. 105-7. Chế độ này có thể có nhiều nét tương đồng với chế độ
giám sát của người đại diện cho người chưa thành niên đủ 15 tuổi trong các giao
dịch quan trọng. Tuy nhiên, các quy định liên quan trong luật Việt Nam còn quá
sơ sài; đặc biệt, luật chưa có chế tài nào đối với các trường hợp vi phạm các
quy định ấy.
(13)
Hơn nữa, cần phân biệt giữa bằng chứng về nội dung của hợp đồng và bằng chứng
về thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng vận chuyển hành khách, vé cũng
là bằng chứng về việc hành khách đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền: nếu đã ở trên
phương tiện vận chuyển, thậm chí đang trong lộ trình vận chuyển mà không xuất
trình được vé, hành khách bị coi là đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng
vận chuyển đã được giao kết hợp lệ…
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ