Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động theo BLTTDS

Thứ Hai 16:25 22-05-2006
TS. Nguyễn Ngọc Khánh
Viện Khoa học Kiểm sát - VKSND Tối cao

HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ, KINH TẾ, LAO ĐỘNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ


Các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND đòi hỏi phải được thể chế hoá, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động... Quá trình tổng kết thực tiễn hoạt động của VKSND trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động cho thấy chế định VKSND trong pháp luật TTDS, KT, LĐ hiện hành còn nhiều bất cập cần được hoàn thiện. Thời gian qua cũng đã có nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành có các nội dung liên quan đến chế định VKSND trong TTDS, KT, LĐ. Trước hết phải kể đến là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã điều chuyển và chính thức khẳng định VKSND có hai chức năng độc lập là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tiếp sau đó, Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hoá và thể chế hoá một tư tưởng chỉ đạo trong cải cách tư pháp là: Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bao gồm cả lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính... Điều đó về mặt pháp lý đã tạo cơ sở hết sức quan trọng để đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát, đồng thời cũng khai thông và tạo tiền đề cho việc hoàn thiện chế định VKSND trong TTDS, KT, LĐ theo định hướng cải cách tư pháp.

1. Chế định VKSND trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động bao gồm những quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau thuộc ngành luật nhà nước và ngành luật tố tụng tư pháp. Trước tiên phải nói đến là Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định một cách khái quát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong TTDS, KT, LĐ (Điều 20-25 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS, KT, LĐ cũng được quy định tương đối cụ thể tại các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và một số văn bản pháp luật khác như Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh thi hành án dân sự...

Điều dễ thấy là không chỉ ở Việt nam, mà ở các nước trên thế giới chế định Viện Công tố trong TTDS, KT, LĐ cũng không quy định trong một văn bản pháp luật duy nhất mà được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau. Mặc dù được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, nhưng nhìn chung chế định Viện kiểm sát (Viện Công tố) trong TTDS, KT, LĐ vẫn được thể hiện cụ thể và rõ nét nhất là trong các văn bản pháp luật về thủ tục tố tụng tư pháp. Điều này cho thấy về kỹ thuật xây dựng luật, cách thể hiện chế định Viện Công tố trong TTDS, KT, LĐ là tương đối giống nhau. Điểm tương đồng này xuất phát từ nguyên tắc lập pháp đã được thừa nhận, theo đó, Luật về Viện Công tố hay Luật tổ chức Viện kiểm sát chỉ điều chỉnh tổ chức, bộ máy và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Công tố (Viện kiểm sát) một cách nguyên tắc và khái quát, không quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trình tự, thủ tục thực hiện chúng trong TTDS, KT, LĐ. Vấn đề này thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật tố tụng tư pháp và một số văn bản pháp luật khác. Tựu trung, trong pháp luật thực định Việt nam và các nước, nội dung chế định VKSND (Viện Công tố) trong TTDS, KT, LĐ được thể hiện cụ thể và rõ nét nhất là trong pháp luật về TTDS, KT, LĐ. Xét cho cùng, những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động được ghi nhận chủ yếu trong pháp luật hình thức cũng là điều dễ hiểu, bởi lẽ bản chất của chế định VKSND trong TTDS, KT, LĐ chính là chế định pháp luật về tố tụng.
Nếu như trong lĩnh vực tố tụng hình sự, luật tố tụng các nước đều cho rằng cơ quan Công tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là bên buộc tội nhân danh Nhà nước, thì trong lĩnh vực tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, phần lớn các quốc gia đều quan niệm rằng vị trí, vai trò của Viện Công tố rất hạn chế so với lĩnh vực hình sự do ảnh hưởng từ nguyên tắc tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động. Viện Công tố chỉ can thiệp vào quan hệ dân sự khi một bên bị mất năng lực hành vi, hoặc khi mà quyền tự định đoạt của các bên xâm phạm đến lợi ích công hay trật tự pháp luật nhằm bảo vệ những lợi ích và trật tự đó mà thôi. Thậm chí, các nước theo truyền thống luật Anh-Mỹ (Common Law) thì cho rằng trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động càng ít sự can thiệp của công quyền càng tốt, và vì thế Viện Công tố những nước này hầu như không tham gia TTDS, KT, LĐ1.

Nghiên cứu pháp luật nhiều nước cho thấy khi tham gia TTDS, KT, LĐ vì lợi ích chung thì thông thường vị trí Viện Công tố là một bên trong TTDS, KT, LĐ, tức là khi khởi kiện vì lợi ích công thì Viện Công tố chỉ có quyền và nghĩa vụ tố tụng bình đẳng như những chủ thể tham gia tố tụng khác, mà không được trao thêm quyền năng pháp lý đặc biệt nào. Tuy vậy, khác với các đương sự như nguyên đơn, bị đơn dân sự hay người có quyền nghĩa vụ, liên quan khi tham gia tố tụng, Viện Công tố không có một lợi ích vật chất nào liên quan tới vụ án cũng như không bị ràng buộc chỉ vì lợi ích từ phía các đương sự. Sự quan tâm của Viện Công tố trong TTDS, KT, LĐ là xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, nhu cầu bảo vệ lợi ích công cộng và nhu cầu bảo đảm công bằng trong xã hội. Thậm chí, ngay cả trong trường hợp quyền lợi của người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần bị xâm phạm nghiêm trọng thì việc Viện Công tố tham gia tố tụng không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân cho họ mà trước hết là bởi bản chất những vụ việc này có tính chất công và mang ý nghĩa xã hội.

Ở Việt nam, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế), Viện kiểm sát có vị trí và vai trò tương đối đặc biệt trong TTDS, KT, LĐ. Các quy định về vị trí và vai trò của VKSND Việt Nam trong TTDS, KT, LĐ gần giống với các quy định tương tự của Cộng hoà Pháp và Liên bang Nga trước đây (nhiều luật gia cho rằng pháp luật Việt Nam, nhất là pháp luật dân sự, tố tụng dân sự...chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật Cộng hoà Pháp và Liên bang Xô viết) nhưng được mở rộng hơn rất nhiều. Căn cứ theo quy định của các điều 20, 21, 22 Luật tổ chức VKSND năm 2002 và các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, Viện kiểm sát nước ta không chỉ là cơ quan bảo vệ lợi ích xã hội và trật tự công cộng mà còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực TTDS, KT, LĐ. Chính vì có vị trí, vai trò đặc biệt như thế, nên so với Viện Công tố nhiều nước, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND Việt nam trong TTDS, KT, LĐ được quy định tương đối rộng rãi. Ngoài quyền tham gia tố tụng khi khởi tố hay khởi kiện vụ án dân sự, lao động như Viện Công tố các nước, VKSND còn được trao thêm nhiều thẩm quyền đặc thù của một cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà Viện Công tố một số nước không có, chẳng hạn như quyền kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án, quyền phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án khi tham gia phiên toà, hay quyền kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Có thể nói, những thẩm quyền này đã góp phần chủ yếu tạo nên diện mạo độc đáo và riêng có cho VKSND nước ta trong hệ thống Viện Công tố các nước trên thế giới.

2. Căn cứ theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002, nếu trong lĩnh vực tố tụng hình sự VKSND có hai chức năng độc lập, riêng rẽ là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật thì trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động VKSND chỉ có một chức năng duy nhất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Mặt khác, theo quy định của Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí đặc biệt, Viện kiểm sát tham gia tố tụng không chỉ với tư cách là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà còn là cơ quan bảo vệ lợi ích xã hội và trật tự công khi khởi tố vụ án dân sự, lao động. Những quy định đó đặt ra một số vấn đề sau đây:

- Thứ nhất, cần thống nhất về mặt nhận thức rằng chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND được thực hiện trong mọi giai đoạn của tố tụng dân sự, bắt đầu từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Toà án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành để kiểm tra, giám sát hành vi tố tụng của Toà án, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích công và trật tự công. Tuy có một số trường hợp VKSND tham gia tố tụng đồng thời với cả hai vị trí để kiểm sát việc tuân theo pháp luật và để bảo vệ lợi ích chung, nhưng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mới là phương diện hoạt động đặc trưng, đặc thù của VKSND xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng.

- Thứ hai, theo quy định mới của Luật tổ chức VKSND năm 2002, quyền công tố của VKSND chỉ thực hiện trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử của tố tụng hình sự (chương II, chương III Luật tổ chức VKSND năm 2002). Quy định này đã khác rất nhiều về nhận thức lâu nay của ngành kiểm sát coi quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động là một quyền năng thực hành quyền công tố, tức là quyền đưa vụ án ra toà.

Có nhiều ý kiến cho rằng theo Luật tổ chức VKSND năm 2002 quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động của Viện kiểm sát xuất phát từ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nếu khẳng định như vậy thì không giải thích được tại sao Viện Công tố nhiều nước trên thế giới tuy không có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng lại có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động? Do vậy, coi quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động thuộc chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp cũng chưa được thuyết phục. Vậy khi khởi tố vụ án dân sự, lao động thì Viện kiểm sát nhân danh cái gì? Chúng tôi cho rằng cũng như Viện Công tố các nước, Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự, lao động là nhân danh lợi ích công. Do đó, VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí đặc biệt, Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, KT, LĐ mà còn là cơ quan bảo vệ lợi ích xã hội và trật tự công khi khởi tố vụ án dân sự, lao động. Song cần lưu ý là cả hai vị trí này trong một vụ án cụ thể có thể do một Kiểm sát viên đảm nhiệm nhưng đây là hai vị trí tố tụng độc lập, tách biệt với nhau và có mục đích khác nhau: khởi tố vụ án dân sự, lao động là nhằm chứng minh hành vi vi phạm pháp luật của bị đơn để bảo vệ lợi ích chung còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, KT, LĐ lại nhằm mục đích bảo đảm hoạt động tố tụng tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Tương ứng với hai vị trí tố tụng độc lập, riêng rẽ là hai hoạt động tố tụng độc lập, tách biệt với nhau, đó là hoạt động tố tụng liên quan đến việc khởi tố vụ án dân sự, lao động và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Lẽ dĩ nhiên, các biện pháp pháp lý của VKSND trong mỗi hoạt động tố tụng cũng tồn tại một cách độc lập với nhau, không phụ thuộc vào nhau. Khi khởi tố vụ án dân sự, lao động VKSND đồng thời vừa có quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tham gia tố tụng vì lợi ích chung, vừa có những quyền năng pháp lý đặc thù của cơ quan thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn trong những trường hợp khác, VKSND chỉ có những thẩm quyền của cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, KT, LĐ mà thôi.

Xuất phát từ một số vấn đề nêu trên, chế định VKSND trong Bộ luật tố tụng dân sự cần được hoàn thiện trên những nội dung cơ bản sau:
- Về vị trí, chức năng của VKSND trong TTDS, KT, LĐ
Quy định rõ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND là một trong những nguyên tắc của pháp luật TTDS, KT, LĐ bao trùm toàn bộ quá trình tố tụng và được biểu hiện trong mọi giai đoạn của TTDS, KT, LĐ từ khi thụ lý đơn kiện đến khi Toà án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành; bên cạnh đó, cần tách biệt tối đa về mặt lập pháp vị trí, vai trò của VKSND khi tham gia tố tụng đồng thời với cả hai tư cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, KT, LĐ và cơ quan khởi tố vụ án dân sự, lao động vì lợi ích chung theo hướng quy định rõ thẩm quyền của VKSND trong hoạt động khởi tố vụ án dân sự, lao động và trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động khởi tố vụ án dân sự, lao động
Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động khởi tố vụ án dân sự, lao động cần hoàn thiện theo hướng vừa tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, vừa đảm bảo pháp luật được thi hành, bảo vệ có hiệu quả lợi ích xã hội và trật tự công. Để đạt được mục đích đó, cần chú ý tới hai vấn đề sau:
+ Về phạm vi những loại việc mà VKSND được phép khởi tố: tham khảo pháp luật các nước chúng tôi thấy quyền khởi tố các vụ án dân sự của Viện Công tố một số quốc gia được quy định ngay tại các điều cụ thể trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật về nội dung khác, còn Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định nguyên tắc chung, nhưng ở một số nước khác thì quyền khởi tố vụ án dân sự của Công tố viện lại được quy định rải rác tại một số điều luật trong các văn bản pháp luật về nội dung và hình thức. Theo chúng tôi, để pháp luật tố tụng hay pháp luật nội dung quy định một cách đầy đủ các trường hợp Viện kiểm sát có thể khởi tố là vấn đề không đơn giản vì mục đích khởi tố vụ án dân sự, lao động của Viện kiểm sát là nhằm bảo vệ lợi ích công và trật tự công cộng mà bản thân khái niệm này cũng khó có thể xác định một cách chính xác và đầy đủ. Hơn nữa chính khái niệm này cũng có sự thay đổi theo cả không gian và thời gian. Do đó, phương án dễ chấp nhận hơn cả là pháp luật tố tụng vừa xác định nguyên tắc chung về những loại việc mà Viện kiểm sát được phép khởi tố, vừa quy định cụ thể, rõ ràng một số trường hợp xâm hại đến lợi ích chung có thể khởi tố như kết hôn trái pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần... Việc kết hợp những quy định có tính chất “cứng” với những quy định có tính chất “mở” như vậy vừa đảm bảo yếu tố chặt chẽ trong quy định của pháp luật, vừa tạo điều kiện thuận lợi để khi cần thiết có thể áp dụng linh hoạt cho phù hợp với sự biến đổi và phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội.
+ Về vị trí, vai trò của VKSND khi khởi tố vụ án dân sự: quy định rõ ràng và cụ thể quyền, nghĩa vụ tố tụng của Viện kiểm sát trong hoạt động khởi tố vụ án dân sự, lao động theo hướng xác định vị trí tố tụng của VKSND khi khởi tố vụ án tương tự như nguyên đơn dân sự, Viện kiểm sát không có quyền hoà giải nhưng có quyền rút hoặc thay đổi quyết định khởi tố, có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình, quyền tham gia tranh luận tại phiên toà, quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời... Tham khảo một số nước như Cộng hòa Pháp, Nhật bản, Liên bang Nga... pháp luật tố tụng của họ đều quy định Viện Công tố khi khởi tố vụ án dân sự có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn dân sự, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ trả lệ phí.
Đồng thời, để xác định rõ quyền khởi tố vụ án của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với quyền tự định đoạt của đương sự, tránh tình trạng khởi tố trùng hoặc khởi tố thay cho đương sự, cần quy định rõ là chỉ khi cá nhân, tổ chức có liên quan không thể tự khởi kiện thì Viện kiểm sát mới khởi tố.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ của Toà án
Theo quy định của Điều 21 khoản 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002, Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu TAND hoặc tự mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên, quy định tại Điều 21 khoản 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 chỉ phù hợp với pháp luật TTDS, KT, LĐ hiện hành và thực tiễn xét xử của Toà án trong thời gian qua. Hiện nay, Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự lần thứ 12 đã có những đổi mới trong hoạt động thụ lý, lập hồ sơ vụ án, ví dụ như: Khi Toà án không thụ lý hoặc trả lại đơn khởi kiện, đương sự có quyền khiếu nại; đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, Toà án chỉ tiến hành xác minh những vấn đề đương sự có yêu cầu và nếu việc thu thập tài liệu, chứng cứ đó thực sự nằm ngoài khả năng của họ; đương sự có quyền được biết các yêu cầu và chứng cứ của phía bên kia... Có thể nói, đây là những quy định mới quan trọng và cần thiết, một mặt đặt ra trách nhiệm của cơ quan xét xử trong việc tạo điều kiện thuận lợi để mọi công dân, tổ chức có thể tiếp cận Toà án một cách công khai, bình đẳng, mặt khác là để thể hiện rõ hơn nguyên tắc tự định đoạt cũng như nguyên tắc quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự nhằm phát huy hơn nữa vai trò tích cực, chủ động của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp từ phía Toà án và Viện kiểm sát vào việc thực hiện những nguyên tắc này của đương sự. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi đề nghị cần giới hạn hoạt động kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ của Toà án theo hướng: Viện kiểm sát chỉ kiểm sát việc lập hồ sơ khi có khiếu nại của đương sự, khi Toà án xác minh, thu thập chứng cứ, hoặc khi có liên quan đến lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án, người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Viện kiểm sát cũng chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã khởi tố.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động tham gia tố tụng tại phiên toà
Có quan điểm cho rằng, để thực hiện quy định mới của Luật tổ chức VKSND năm 2002 về trách nhiệm của Viện kiểm sát phải tham gia 100% phiên toà xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động... ở Toà án các cấp và phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án (Điều 21 khoản 3), pháp luật tố tụng cần quy định rõ ràng về sự tham gia bắt buộc của Kiểm sát viên tại các phiên toà xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm, tái thẩm và hậu quả pháp lý nếu Kiểm sát viên vắng mặt. Chúng tôi cho rằng, việc kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, chứ không nhất thiết phải tham gia 100% các phiên toà (ví dụ như sau khi xét xử, Toà án gửi bản sao bản án, quyết định của Toà án cho VKSND cùng cấp để kiểm sát v.v...), còn việc Viện kiểm sát giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên toà là không cần thiết, việc này nên để Hội đồng xét xử thực hiện thì hợp lý hơn. Do vậy, những quy định về nội dung và thủ tục liên quan đến việc tham gia tố tụng tại phiên toà của Viện kiểm sát nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Viện kiểm sát chỉ tham gia tố tụng tại phiên toà và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án trong những trường hợp sau đây: a/ Viện kiểm sát khởi tố hoặc kháng nghị; b/ Những vụ án mà Toà án xác minh, thu thập chứng cứ; c/ Những việc dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; d/ Công nhận và cho thi hành tại Việt nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài. Đối với những trường hợp khác, Viện kiểm sát có thể tham gia khi xét thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích công, lợi ích của người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.

Đi đôi với việc quy định Kiểm sát viên có trách nhiệm xét hỏi và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà với tư cách là người thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, cần quy định đầy đủ và cụ thể quyền, nghĩa vụ tố tụng của Kiểm sát viên khi tham gia phiên toà trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố (ví dụ như quyền xuất trình chứng cứ, quyền tham gia tranh luận...); Đồng thời sửa đổi quy định ràng buộc trách nhiệm chuyển hồ sơ của Toà án cũng như sửa đổi, bổ sung các thời hạn tố tụng như thời gian nghiên cứu hồ sơ, thời hạn kháng nghị phúc thẩm... sao cho phù hợp với sự tham gia tố tụng tại phiên toà của VKSND.

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động kháng nghị
Cùng với những hoạt động khởi tố vụ án dân sự, lao động vì lợi ích chung, hoạt động kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ của Toà án và hoạt động tham gia tố tụng tại phiên toà, hoạt động kháng nghị các bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng là một hoạt động đặc trưng, đặc thù của VKSND nước ta. Chế định pháp luật về thẩm quyền kháng nghị của VKSND trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động có một lịch sử hình thành, quá trình phát triển từ hơn 40 năm nay và được quy định tương đối cụ thể tại các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, để tiếp tục hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động kháng nghị các bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau đây:

+ Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm: xây dựng quy định về căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo hướng về nguyên tắc Viện kiểm sát chỉ tiến hành kháng nghị phúc thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đối với những trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án mắc sai lầm trong việc áp dụng pháp luật nhưng không vi phạm thủ tục tố tụng thì để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, Viện kiểm sát không kháng nghị, việc kháng cáo hay không kháng cáo hoàn toàn do đương sự quyết định. Ngoại lệ là nếu đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, hoặc kết hôn trái pháp luật, hoặc với những vụ án Viện kiểm sát khởi tố, thì VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với mọi vấn đề liên quan đến nội dung vụ án, bất luận bản án, quyết định sơ thẩm đó vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng hay có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

+ Về căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: việc quy định căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm quá rộng như hiện nay là không cần thiết, bởi vì có những vi phạm pháp luật không nghiêm trọng cũng bị kháng nghị dẫn đến việc xét xử giám đốc bị quá tải (sau đó vẫn y án đã có hiệu lực pháp luật). Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm của pháp luật tố tụng hiện hành và để quán triệt các nghị quyết của Đảng về đổi mới thủ tục giám đốc thẩm, cần xác định rõ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng chỉ quy định những vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến sai lầm trong việc giải quyết vụ án, cụ thể là:
· Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết vụ án có sai lầm nghiêm trọng;
· Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án.

+ Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Về lý luận, nếu nhìn nhận thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật là nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND do pháp luật quy định để thực hiện đầy đủ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử, trong việc ra bản án, quyết định của TAND, góp phần bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi bản án, quyết định của Toà án đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, thì rõ ràng không nên hạn chế thời hạn kháng nghị bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế Việt nam hiện nay, để phù hợp với điều kiện xã hội, kinh tế, văn hoá pháp luật của các tầng lớp nhân dân và để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì việc pháp luật tố tụng giới hạn thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là cần thiết.

Về thực tiễn, nếu tính cần thiết của việc hạn chế thời gian kháng nghị giám đốc thẩm dường như không gây tranh cãi, thì xung quanh việc xác định thời hạn kháng nghị được bắt đầu khi nào và kéo dài trong bao lâu vẫn không phải không có những ý kiến khác nhau. Với lý do cho rằng, trong thời gian qua, việc thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm phần lớn dựa vào việc xem xét khiếu nại của đương sự, nên nhiều ý kiến đề nghị mốc tính thời hạn kháng nghị là ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được đơn khiếu nại đầu tiên. Nhưng trên thực tế, do có hai cơ quan khác nhau là VKSND và TAND đều có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và giải quyết khiếu nại, nên việc thống nhất thời điểm nhận đơn khiếu nại giám đốc thẩm giữa hai cơ quan sẽ không dễ dàng, hơn nữa, ngày bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động có hiệu lực pháp luật là sự kiện pháp lý khách quan đã được Toà án công nhận và mọi người đều biết, do đó, việc pháp luật tố tụng quy định thời hạn kháng nghị được bắt đầu kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật là khách quan và hợp lý.

Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chúng tôi cho rằng, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 3 năm như pháp luật tố tụng dân sự hiện hành là quá dài, không bảo đảm tính ổn định của các quan hệ dân sự đã được xác lập, còn thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 9 tháng và 6 tháng như pháp luật tố tụng kinh tế và lao động hiện hành lại quá ngắn, không đảm bảo cho người có thẩm quyền có thời gian cần thiết để nghiên cứu, xem xét việc kháng nghị. Phương án khả thi hơn cả là quy định thời hạn kháng nghị chung là 2 năm cho tất cả các bản án dân sự, kinh tế, lao động, vì khoảng thời gian như vậy là vừa đủ, không quá ngắn và cũng không quá dài, vừa phù hợp với năng lực cán bộ, điều kiện tổ chức thực hiện công tác kháng nghị, vừa đảm bảo được tính ổn định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tiếp đến, cần bổ sung quy định thời hạn khiếu nại của đương sự đối với bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật là 6 tháng kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Việc giới hạn thời hạn khiếu nại giám đốc thẩm của đương sự sẽ tạo nên tác dụng kép, một mặt hạn chế tình trạng thi hành án bị dây dưa, kéo dài, mặt khác vẫn thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự và đề cao trách nhiệm cá nhân của họ.

+ Về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm: theo Nghị quyết số 56/2002/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, chỉ Viện trưởng VKSND tối cao mới có quyền kháng nghị giám đốc thẩm bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết giám đốc thẩm của TAND tối cao. Tuy nhiên, trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự, kinh tế, lao động cũng như trên phương diện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKSND tối cao trong hoạt động quản lý hành chính và trong hoạt động chỉ đạo nghiệp vụ của toàn ngành kiểm sát, cần thực hiện cơ chế uỷ quyền kháng nghị hoặc ký thay kháng nghị cho Phó Viện trưởng VKSND tối cao, nhưng về nguyên tắc, Viện trưởng VKSND tối cao là người chịu trách nhiệm về những kháng nghị đó.

Các văn bản liên quan