Góp ý của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

Thứ Ba 00:25 30-05-2006
GÓP Ý DỰ THẢO THÔNG TƯ THAY THẾ THÔNG TƯ 172/1998/TT-BTC

Ban dự thảo ( ngày 5/3/2004) thông tư hướng dẫn thi hành nghị định số 54/ CP ngày 28/8/1993 số 94/1998/ ND - CP ngày 17/11/1998 của thủ tướng chính phủ quy định chi tiết thi hành các luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nhiều ưu điểm: Đã thể hiện được nhiều điều đổi mới trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong tiến trình hoạt động của mình. Bản dự thảo cũng đã tổ hợp được nhiều văn bản pháp quy vào một văn bản sẽ giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được thuận lợi.

Sau đây, xin góp một số ý kiến cụ thể về nội dung của bản dự thảo này như sau:

1. Tại trang 4, điểm 3.2 ( Mục A phần II ) có 1 cụm từ không được rõ là: "Các chứng từ hợp pháp, hợp lệ . . ." chúng tôi đề nghị trong bản dự thảo này cần quy định rõ ràng thế nào là các chứng từ hợp pháp, hợp lệ. Nếu không có chứng từ hợp pháp, hợp lệ để xác định chi phí vận tải và phí bảo hiểm thì chi phí vận tải được tính bằng 15% giá hàng hoá nhập khẩu. Qui định điểm này sẽ kéo dài thời gian cho các doanh nghiệp nhập hàng. Vì có giá rồi mới có phí. Tại điểm 3.3: E rằng có sự tính giá 2 lần. Theo qui định tại điểm này: "Giá tính thuế là giá bao gồm cả giá trị hàng hoá bảo hành ..." Thực ra giá hàng hoá bảo hành đã nằm trong giá trị hàng hoá rồi.

2. Tại trang 8, điểm 2 ( ở mục C phần II).

- Đề nghị bổ sung thêm 2 chữ “chậm nhất” vào đoạn văn “... Trong thời hạn chậm nhất 8 giờ làm việc ...”
- Đoạn cuối ở phần tiếp theo qui định “... thời hạn thông báo thuế được kéo dài hơn, nhưng tối đa không quá 15 ngày làm việc...” Qui định 15 ngày là quá dài.
- Đoạn tiếp theo: “...cơ quan Hải quan nơi làm thủ tục Hải quan...làm căn cứ tính thuế và thu thuế nhập khẩu...”
Như vậy chi phí giám định ai chịu. Chúng tôi đề nghị cơ quan Hải quan chịu, sau đó trừ vào thuế.
- Đoạn cuối của trang 8: “Một số trường hợp đặc biệt... có văn bản giải trình để Bộ Tài chính xem xét quyết định từng trường hợp cụ thể...”. Quy định như thế này nặng nề và mất nhiều thời gian quá. Chúng tôi cho rằng chỉ cần căn cứ hợp đồng gia công là đủ, hoặc cơ quan Hải quan quyết định là được.

3. Tại trang 16: “Trường hợp đặc biệt lô hàng quà biếu... Bộ Tài Chính xem xét xử lý cụ thể từng trường hợp” Việc này nên phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định.
- Mục 4.4: “Hàng hoá của người Việt nam định cư ở nước ngoài ... Bộ Tài chính xem xét giải quyết từng trường hợp cụ thể”
Điều này cũng nên giao cho chính quyền địa phương để kịp thời gian sử dụng.

4. Tại trang 18 từ điểm 1.1 cho đến 1.4 cần qui định thêm trách nhiệm của cơ quan Hải quan và thời hạn giải quyết.

5. Tại trang 19, dòng thứ 5 từ trên xuống: “ Xác nhận của phía chủ hàng nước ngoài về việc gửi phí hợp đồng”.
Đề nghị bỏ quy định này.
- Dòng thứ 9 từ trên xuống: chữ Xuất có lẽ không đúng mà phải chữ Nhập!.

6. Tại trang 22 Dòng thứ 9 từ dưới lên: “Chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho lô hàng xuất khẩu”.
Đề nghị chỉ cần bản sao (có công chứng) Bản gốc doanh nghiệp lưu giá.

7. Tại trang 26. Mục 1.8: Qui định như nội dung ở mục 1.8 thì cứng nhắc quá. Mục đích của nhà nước ta hoàn thuế. Trong thực tế có nhiều lô hàng nước ngoài họ không nhận, chủ hàng Việt nam cũng không mang về ( ví dụ như hàng tươi sống chờ thời gian giải quyết quá dài, hàng thiu thối phải bỏ đi . . .) cũng có trường hợp hàng xuất ở Cảng Hải Phòng, nước ngoài không tiêu thụ, nhưng hàng đó lại tiêu thụ được ở một cảng khác của Việt nam . . . Từ những thực tế đó, đề nghị cho phép hàng nhập khẩu trở lại Việt nam không nhất thiết phải làm thủ tục Hải quan tại nơi đã làm thủ tục xuất khẩu hàng đó.

8. Trang 30 - 31 Đoạn cuối cùng của trang này: “Trường hợp các tổ chức, cá nhân nhập khẩu máy móc . . . Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho hoặc hoá đơn bán hàng của tổ chức, cá nhân nhập khẩu giao cho bên mua tiếp nhận ..."
Đề nghị qui định rõ cơ quan tiếp nhận các hồ sơ đó của Bộ Thương mại là cơ quan nào, ở đâu để doanh nghiệp dễ làm việc.

9. Tại trang 32. Mục 2.
Đối với các trường hợp 1.1, 1.2, 1.3, 1.4, 1.5 . . . Trong trường hợp được hoàn lại thuế phải nộp kỳ sau và đề nghị được hoàn trả trực tiếp thì Cục trưởng Hải quan xác nhận và đề nghị Bộ Tài chính ( Vụ ngân sách nhà nước) trực tiếp hoàn lại sở thuế cho đối tượng . . .
Để thuận tiện cho doanh nghiệp đề nghị để Cục trưởng Hải quan trực tiếp hoàn lại số thuế cho đối tượng. Sau đó Cục trưởng Hải quan báo cáo Bộ Tài Chính để cân đối nội bộ.

Trên đây là 1 số ý kiến đóng góp để các đồng chí tham khảo. Rất mong thông tư sớm được ban hành.


[b]Nguyễn Tôn Quyền
Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký
Hiệp hội gỗ & Lâm sản việt nam

Các văn bản liên quan