Coi chừng vi phạm hình thức hợp đồng
COI CHỪNG VI PHẠM HÌNH
THỨC HỢP ĐỒNG
LÊ TRỌNG DŨNG –
Văn phòng Luật sư Gia Phạm
Vụ án dưới
đây chỉ là một trong số rất nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng liên quan đến việc
vi phạm hình thức ở Việt Nam.
Vợ chồng ông A rất thân với vợ
chồng ông B và cho vợ chồng ông B mượn nhà để sinh sống. Khi cơ hội đến, vợ
chồng ông A đã dùng căn nhà của mình đem thế chấp ngân hàng để vay tiền kinh
doanh. Nhưng do việc làm ăn của vợ chồng ông A không thuận lợi, nợ nần quá
nhiều, khiến vợ chồng ông B phải cho vợ chồng ông A vay tiền để trả ngân hàng
và trang trải nợ nần.
Trước tình hình đó, vợ chồng ông
A gợi ý bán căn nhà cho vợ chồng ông B. Sau nhiều lần thỏa thuận, hai bên đã
lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký của các bên nhưng không đem đi
công chứng, chứng thực. Đang trong quá trình sang tên sổ đỏ, vợ chồng ông A lại
làm đơn ra tòa yêu cầu hủy thỏa thuận mua bán căn nhà, buộc vợ chồng ông B phải
trả lại nhà.
Qua các cấp xét xử, sơ thẩm rồi
đến phúc thẩm, tòa án đều xác nhận việc mua bán căn nhà là có thực, song tuyên
bố chấp nhận yêu cầu xin hủy thỏa thuận mua bán căn nhà của vợ chồng ông A và
tuyên bố hợp đồng này vô hiệu. Lý do mà tòa án đưa ra là thỏa thuận mua bán căn
nhà chưa được hai bên lập hợp đồng, công chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật, vi phạm quy định về hình thức hợp đồng.
Tuyên bố hợp đồng mua bán căn nhà
vô hiệu, tòa án buộc ông vợ chồng ông B phải trả lại căn nhà; ngược lại, vợ
chồng ông A có nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng ông B tiền bán căn nhà đã nhận.
Vi phạm về
hình thức hợp đồng
Nhằm đảm bảo lợi ích công cộng,
sự quản lý của nhà nước, lợi ích của các bên tham gia hợp đồng cũng như lợi ích
của người khác, pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản lớn phải được
thể hiện dưới một dạng hình thức nhất định.
Trong
trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các
quy định đó. Và theo điều 450 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng mua bán
nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
Do đó, vợ chồng ông A và vợ chồng
ông B lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký của các bên nhưng không
đem đi công chứng, chứng thực đã vi phạm quy định về hình thức của hợp đồng.
Lợi dụng quy
định để hưởng lợi
Theo điều 134, Bộ luật Dân sự
2005, “trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc
các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Thực tế cho thấy, tòa án đã áp
dụng điều 134, Bộ luật Dân sự 2005 ra quyết định buộc vợ chồng ông A và vợ
chồng ông B phải thực hiện các thủ tục để hoàn thiện hình thức hợp đồng mua bán
căn nhà trong thời gian một tháng. Theo đó, vợ chồng ông A và vợ chồng ông B
phải đem hợp đồng mua bán căn nhà đi công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm
quyền trong thời gian ấn định là một tháng.
Tuy nhiên, vì muốn lấy lại căn
nhà nên vợ chồng ông A đã không làm việc này. Vì vậy, việc khắc phục vi phạm về
hình thức hợp đồng đã không thể thực hiện được, tòa án buộc phải tuyên bố hợp
đồng vô hiệu và xác định vợ chồng ông A là bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu.
Với nhận định đó, tòa án căn cứ
vào điều 137, Bộ luật Dân sự 2005 buộc vợ chồng ông B phải trả lại căn nhà cho
vợ chồng ông A, đồng thời yêu cầu vợ chồng ông A trả lại cho vợ chồng ông B
tiền bán căn nhà đã nhận và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho vợ chồng ông
B.
Quy định bắt buộc vợ chồng ông A
và vợ chồng ông B thực hiện hình thức hợp đồng trong một khoảng thời gian nhất
định tỏ ra không đem lại kết quả như các nhà làm luật mong đợi. Trước sự biến
động của giá nhà đất, vì lợi ích vợ chồng ông A càng có động lực để không tiếp
tục thực hiện hợp đồng, muốn hợp đồng vô hiệu. Nguời ta sẵn sàng chấp nhận việc
bồi thường thiệt hại để đạt được mục đích vì biết rằng cái lợi sau đó có thể bù
đắp cho việc phải bồi thường.
Và khi đó, tòa án là nơi để họ
lạm dụng đưa ra các yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu với lý do hợp đồng chưa
tuân thủ về mặt hình thức để họ đạt mục đích. Do phải tuân thủ pháp luật, nên
khi căn cứ vào các quy định hiện hành tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tòa án đã vô
tình ủng hộ sự bội ước của vợ chồng ông A. và không đạt được tôn chỉ hướng tới
công lý của tòa.
Không nên vô
hiệu do vi phạm về hình thức
Pháp luật hợp đồng của các nước
không coi trọng về hình thức của hợp đồng, không có quy định hình thức hợp đồng
là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như ở Việt Nam. Việc không coi trọng hình
thức hợp đồng được thể hiện rõ trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương
mại quốc tế năm 2004 và Bộ nguyên tắc về hợp đồng châu Âu.
Hai bộ nguyên tắc về hợp đồng này
tuyệt đối không coi trọng hình thức hợp đồng và các bên có thể chứng minh quan
hệ hợp đồng bằng bất kỳ hình thức nào. Theo đó, điều 1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT
quy định: “Bộ nguyên tắc UNIDROIT không bắt buộc hợp đồng, tuyên bố hay bất kỳ một hành vi nào khác phải được giao kết hay
chứng minh bằng một hình thức đặc biệt. Chúng có thể được
chứng minh bằng bất kỳ cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Nguyên tắc này
được công nhận trong bộ luật dân sự nhiều nước trên thế giới và nó phù hợp với
điều kiện giao dịch thương mại quốc tế.
Trong Bộ luật Dân sự 2005, các
nhà làm luật nước ta cũng đã có ý định tiếp nhận nguyên tắc vi phạm về hình
thức hợp đồng không làm hợp đồng vô hiệu. Cụ thể, tại điều 401 Bộ luật Dân sự
2005 quy định: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình
thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Với cách quy định như vậy,
các nhà làm luật vẫn thể hiện sự luyến tiếc của Nhà nước khi không tham gia vào
tự do hợp đồng.
Khi sửa đổi và hoàn thiện Bộ luật
Dân sự với mong muốn đề cao tự do hợp đồng nên quy định rõ ràng về việc vi phạm
về hình thức hợp đồng không làm cho làm hợp đồng vô hiệu. Nếu sửa đổi theo
hướng đó, để tránh các trường hợp như vợ chồng ông A lạm dụng quy định tại điều
134, Bộ luật Dân sự 2005 nhằm không thực hiện hợp đồng, nên có quy định chiểu
theo ý chí tự do hợp đồng mà hối thúc các bên hoàn tất thủ tục về hình thức
theo luật định.
Khi tòa án có đủ căn cứ chứng
minh các bên đã tự do thỏa thuận, hợp đồng đã xác lập nhưng chưa thỏa mãn về
điều kiện hình thức thì tòa án buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không được thực hiện thì hợp đồng được
coi là tuân thủ về hình thức. Trong trường hợp này, tòa án cũng có thể ra một
quyết định để công nhận hợp đồng đó đã thỏa mãn về điều kiện hình thức và buộc
các bên phải tuân theo những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng.
SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ
SÀI GÒN