BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NHIỆM KỲ KHOÁ XI

Thứ Sáu 08:45 23-03-2007

Căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và trên cơ sở thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội kết quả hoạt động của mình trong nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) như sau:

 

I-    KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN

Cùng với những đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phát huy kết quả đạt được của các nhiệm kỳ trước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá XI đã đẩy mạnh hoạt động trên nhiều lĩnh vực và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với tinh thần trách nhiệm cao trước Quốc hội và nhân dân, tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội nói chung và mỗi thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội nói riêng đã tích cực phấn đấu, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, góp phần vào những kết quả chung đạt được của Quốc hội.

1.        Về tổ chức chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội.

a)        Việc dự kiến chương trình, triệu tập các kỳ họp Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội chú trọng, chỉ đạo sát sao việc chuẩn bị kỳ họp, dự kiến nội dung và xây dựng chương trình làm việc, tiến độ chuẩn bị và nội dung các văn bản trình Quốc hội, từ phân công phân nhiệm cụ thể đến việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của các cơ quan hữu quan của Quốc hội trong việc chuẩn bị kỳ họp, đặc biệt là về nội dung, quy trình, đảm bảo đủ điều kiện mới trình Quốc hội.

Trong việc xây dựng chương trình các kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã sớm chủ động dự kiến nội dung, thời gian tiến hành và gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở ý kiến của các Đoàn đại biểu Quốc hội, các cơ quan hữu quan, chương trình được chỉnh lý và bố trí tối ưu nên đã đạt được sự nhất trí cao khi Quốc hội thông qua và ít phải điều chỉnh trong thời gian tiến hành kỳ họp. Nhờ được thông tin sớm về chương trình, các vị đại biểu Quốc hội cũng chủ động hơn về thời gian, nắm bắt kỹ các nội dung để chuẩn bị ý kiến có chất lượng góp phần hoàn thành tốt chương trình kỳ họp.

Trong nhiệm kỳ khoá XI, Quốc hội tiến hành 11 kỳ họp với khối lượng công việc ngày càng nhiều. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã xem xét và triệu tập các kỳ họp theo đúng thời gian luật định. Đối với các kỳ họp mà thời gian tiến hành trùng với các sự kiện quan trọng của đất nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã bàn bạc kỹ và thống nhất điều chỉnh cho phù hợp, vừa bảo đảm công việc chung của đất nước, vừa bảo đảm chất lượng của các kỳ họp.

b)        Việc chuẩn bị các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác trình Quốc hội

Thực hiện thẩm quyền Quốc hội giao, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về từng dự án, báo cáo tại các phiên họp trước khi trình Quốc hội.  Để tạo sự chủ động cho các cơ quan trình dự án và cơ quan thẩm tra, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến đối với các dự án luật, các báo cáo theo hướng tập trung vào 3 vấn đ ề chính: quy trình, thủ tục chuẩn bị; phạm vi đ iều chỉnh và các nội dung còn có ý kiến khác nhau, từ đ ó xác định dự án, báo cáo có đủ đ iều kiện trình Quốc hội hay không.

Nhằm đáp ứng yêu cầu tăng số lượng, chất lượng dự án luật được Quốc hội cho ý kiến tại mỗi kỳ họp mà không tăng thời gian, căn cứ vào tình hình thực tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chủ động kiến nghị với Quốc hội cho được áp dụng thử nghiệm phương thức thảo luận mới đối với các dự án luật trình Quốc hội cho ý kiến, theo đó Quốc hội xem xét, thảo luận, cho ý kiến đồng thời các dự án khác nhau tại 2 hội trường. Cách làm này đã giảm bớt được thời gian tại mỗi kỳ họp trong điều kiện số dự án trình Quốc hội cho ý kiến tăng lên. Việc tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách do Uỷ ban thường vụ Quốc hội chủ trì cũng là  cách làm mới phát huy khả năng trí tuệ của các vị đại biểu Quốc hội chuyên trách. Với các ý kiến phong phú tại các hội nghị này, các cơ quan chức năng có điều kiện tiếp thu, chỉnh lý dự án cho hợp lý hơn, góp phần nâng cao chất lượng chuẩn bị các dự án luật và quá trình thảo luận, giúp cho việc thảo luận, thông qua tại kỳ họp nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Trong nhiệm kỳ có 2 sự kiện lớn, quan trọng làm cho khối lượng công việc xây dựng pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban t ă ng đ ột biến: Một là, sau khi các dự án luật, pháp lệnh đ ược trình ra Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì từ đ ó về sau thuộc trách nhiệm của Quốc hội vµ Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hai là, từ kỳ họp thứ tư cuối n ă m 2003 đ ến kỳ họp thứ 10 cuối n ă m 2006, Quốc hội đ ã xem xét, thông qua số lượng luật gấp đ ôi các kỳ họp trước đ ó (từ 10 đ ến 14 luật) và cho ý kiến trên dưới 10 dự án luật khác. Khối lượng công việc xây dựng pháp luật t ă ng lớn nhưng thời gian thì không t ă ng nên các Uỷ ban và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đ ã phải làm việc với cường đ ộ hết sức c ă ng thẳng. Có lẽ cũng vì thế, một vài dự án luật do eo hẹp thời gian nên việc chuẩn bị chưa thật nhuần nhuyễn lắm.

Cũng tại nhiệm kỳ này, trên cơ sở quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chủ trì tổ chức các đợt lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về nhiều dự án luật, bộ luật quan trọng, như dự án Luật đất đai (sửa đổi), dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi), dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi)…Hình thức lấy ý kiến nhân dân rất đa dạng, bước đầu sử dụng thế mạnh của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông đại chúng giúp cho việc thực hiện có hiệu quả hơn, nhanh hơn, huy động được trí tuệ của nhân dân từ nhiều nguồn,  góp phần làm cho luật pháp phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi hơn.

c)        Xem xét kiến nghị của cử tri, tổ chức thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội.

Trong 5 năm qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu cải tiến công tác tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri. Quy trình tập hợp đã được rút ngắn, đạt chất lượng tốt; toàn bộ ý kiến, kiến nghị của cử tri, văn bản trả lời của các Bộ, ngành đều được gửi đến các Đoàn đại biểu Quốc hội để nghiên cứu; chỉ đạo Ban dân nguyện phối hợp với Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chuẩn bị, hoàn thiện các Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo trước Quốc hội tại mỗi kỳ họp. Các báo cáo đã phản ánh khá đầy đủ những vấn đề bức xúc nóng bỏng trong đời sống xã hội mà Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có giải pháp tháo gỡ, giải quyết.

Trong việc tổ chức thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, trước mỗi kỳ họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nghe báo cáo về việc tiếp nhận, tổng hợp, phân loại chất vấn của đại biểu Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Chính phủ dự kiến các nội dung chất vấn và danh sách những người trả lời chất vấn tại kỳ họp và báo cáo Quốc hội quyết định.

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác chất vấn và trả lời chất vấn, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nghiên cứu, đề xuất một số cải tiến. Việc nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn phải ngắn gọn, rõ ràng, đúng trọng tâm. Thực hiện chất vấn, trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề, chuyên đề và xử lý dứt điểm từng chuyên đề. Trongquá trình điều hành có sự linh hoạt về thời gian đối với từng người trả lời chất vấn. Những lĩnh vực quan trọng, vấn đề lớn, phức tạp có nhiều đại biểu chất vấn thì được ưu tiên dành nhiều thời gian để các đại biểu tranh luận, làm rõ. Sự cải tiến hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp đã tăng tính tranh luận, đối thoại giữa đại biểu Quốc hội với người trả lời chất vấn, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này.

Tuy đã có những bước cải tiến và đạt được kết quả nhất định, nhưng việc tổ chức chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội của Uỷ ban thường vụ Quốc hội vẫn phải tiếp tục được cải tiến cho khoa học hơn. Trong đó cần cân đối thời gian với khối lượng công việc; giữa nhiệm vụ chính và công việc kiêm nhiệm của các thành viên; bảo đảm tính pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan phối hợp.

Một trong những khuyết điểm chưa khắc phục được là các cơ quan trình các dự án, các báo cáo không thực hiện đúng tiến độ đề ra nên không ít trường hợp bị động dây chuyền trong việc chuẩn bị nội dung kỳ họp. Tài liệu gửi đến đại biểu Quốc hội và cơ quan thẩm tra rất chậm, không bảo đảm thời gian luật định.

2.        Việc xem xét, thông qua pháp lệnh, nghị quyết; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

Thực hiện uỷ quyền lập pháp của Quốc hội, trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành được 31 pháp lệnh, 3 nghị quyết có nội dung quy phạm pháp luật và từ nay cho đến hết nhiệm kỳ sẽ dành thời gian cho ý kiến và thông qua một số dự án pháp lệnh khác. Nhìn chung các văn bản được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua đều cú chất lượng tốt, phù hợp với chủ trương đường lối, chính sách của Đảng. Phạm vi các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong các pháp lệnh, nghị quyết khá rộng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tập trung vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, trật tự, an toàn xã hội, hành chính, tư pháp... Đối với những dự án mang tính nhạy cảm được Quốc hội ủy quyền thực hiện, như vấn đề đất đai, xử l ý vi phạm hành chính, giao dịch dõn sự về nhà ở, đặc biệt là nhà ở cú yếu tố nước ngoài…, đã được gửi xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội trước khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua.

Một điểm mới trong nhiệm kỳ này là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện thẩm quyền giải thích luật. Cụ thể là đã ban hành Nghị quyết 746/2005/NQ-UBTVQH11 về việc giải thích điểm c khoản 2 điều 241 của Luật thương mại. Kết quả này, xét dưới góc độ thực tế, đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc thực hiện thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Song số lượng pháp lệnh, nghị quyết được thông qua trong nhiệm kỳ chưa đạt kế hoạch, giảm so với nhiệm kỳ khoá X. Tuy nhiên cũng phải chú ý là, có 5 pháp lệnh đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội kiến nghị nâng lên thành luật (theo chủ trương hạn chế ban hành pháp lệnh, tăng cường ban hành luật) Một số pháp lệnh chưa bám sát, chưa phản ánh đầy đủ thực tế theo phạm vi điều chỉnh nên tính khả thi còn thấp, chậm đi vào cuộc sống.

3-        Công tác giám sát.

Ý thức được tầm quan trọng của công tác giám sát đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chủ động, tích cực, chỉ đạo sát sao từ việc dự kiến chương trình, triển khai thực hiện, tổng hợp báo cáo cho đến điều hoà, phối hợp, theo dõi thực hiện kiến nghị sau giám sát với sự nỗ lực rất lớn, đưa hoạt động giám sát của Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tiến thêm một bước mới, đạt được những kết quả quan trọng.

a) Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chú trọng công tác giám sát việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy vai trò trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Để đẩy mạnh hoạt động này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo đôn đốc các cơ quan ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện cỏc luật được Quốc hội thông qua để nhanh chúng ỏp dụng trong cuộc sống hoặc yêu cầu cơ quan soạn khi thảo trình dự án luật phải kèm theo văn bản hướng dẫn thi hành.

Trong quá trình hoạt động, tại các phiên họp hoặc đi giám sát địa phương, cơ sở, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, đánh giá việc thực thi các đạo luật, những hạn chế của các chính sách luật đã và đang áp dụng trong thực tế để có hướng điều chỉnh bổ sung cho phù hợp, nhất là trong quá trình giám sát những chuyên đề lớn như: đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện Luật đất đai, thực hiện một số công trình quan trọng quốc gia, triển khai thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước...

Tại các phiên họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã có ý kiến về các vấn đề cụ thể thuộc nhiều lĩnh vực như việc chấp hành các luật thuế, phân bổ thu-chi ngân sách, chính sách tiền lương, hoạt động tư pháp... để Chính phủ, các Bộ, ngành có sự điều chỉnh kịp thời trong công tác điều hành của mình. Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã dành thời gian đi sâu xem xét những vướng mắc trong việc giải quyết một số vụ án phức tạp, tồn đọng, kéo dài, từ đó đưa ra hướng giải quyết và tìm hiểu nguyên nhân, bản chất của sự việc, giúp cho quá trình chỉ đạo, điều hành có hiệu quả.

b) Giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã làm việc với Chớnh phủ, cỏc Bộ, ngành về những vấn đề bức xúc nảy sinh trong xã hội, những nội dung giám sát đã được chọn lọc trong chương trình hoạt động giám sát hàng năm của Quốc hội; xem xét báo cáo định kỳ của Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước; cho ý kiến về những vấn đề kinh tế-xã hội cần có chủ trương giải quyết khi Chính phủ trình như: điều chỉnh mức thuế theo lộ trình, việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cúm gia cầm, vấn đề tai nạn giao thông, việc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...; tiến hành giám sát nhiều chuyên đề theo chương trình được Quốc hội giao, như: việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ, ngân sách nhà nước hàng năm, chính sách đất đai, chính sách khám, chữa bệnh cho nhân dân; kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ năm 2001 đến nay; việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước...

Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã tổ chức nhiều cuộc làm việc với các cơ quan tư pháp về các vấn đề điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, đặc biệt là công tác thi hành án, công tác xét xử phúc thẩm và việc giải quyết các vụ án tồn đọng, các bản án đã tuyên nhưng chưa được thi hành. Trong nhiệm kỳ, Chủ tịch Quốc hội đã dành thời gian trực tiếp làm việc với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an về công tác tư pháp; Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách về hoạt động lập pháp đã chủ trì tiến hành khảo sát về công tác thi hành án từ các cơ quan tư pháp ở trung ương đến các cơ quan tư pháp ở một số địa phương, Quân khu; lãnh đạo Quốc hội và thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã tiến hành nhiều hoạt động giám sát thiết thực khác về hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 

            c) Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong nhiệm kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chuẩn bị để Quốc hội giỏm sỏt chuyên đề về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao. Đây là một chuyên đề có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều cơ quan, Bộ, ngành. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đó tiến hành giám sát và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, cuối năm 2005. Thông qua giám sát chuyên đề này,  các cơ quan có chức năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã tổng rà soát các văn bản được ban hành, chấn chỉnh những sai phạm, loại bỏ những văn bản trái quy định của pháp luật và sửa đổi, bổ sung những văn bản chưa phù hợp với thực tế. Báo cáo kết quả giám sát đã đưa ra kiến nghị để khắc phục những yếu kém và đẩy mạnh hoạt động giám sát văn bản trong thời gian tới, đưa hoạt động giám sát văn bản trở thành công việc thường xuyên của các cơ quan của Quốc hội.

            d) Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

            Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã nghiên cứu, đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh việc sửa đổi, bổ sung Luật khiếu nại, tố cáo; thành lập Ban dân nguyện trực thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội chuyên theo dõi, nghiên cứu, xử lý, đề xuất giải quyết về khiếu nại, tố cáo theo các quy định của pháp luật; xây dựng phần mềm quản lý về tiếp nhận, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tiến hành các hoạt động giám sát về khiếu nại, tố cáo tại các địa phương; xem xét một số vụ việc cụ thể, điển hình về khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức tạp; quan tâm tìm hiểu, xử lý những hiện tượng khiếu kiện đông người, phức tạp; chủ trì việc tổng hợp, nghiên cứu ý kiến, kiến nghị của cử tri tại mỗi kỳ họp... Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã tổ chức giám sát một chuyên đề riêng về việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, thông qua đó nắm rõ hơn tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo và những vướng mắc trong triển khai, thực hiện để có điều kiện sửa đổi, bổ sung Luật cho phù hợp với thực tế.

Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nhưng trong quá trình đổi mới, phát triển của đất nước, việc gia tăng số lượng các vụ việc, đơn, thư khiếu nại, tố cáo là điều khó tránh khỏi, số lượng các vụ, việc vẫn còn lớn; số vụ việc phức tạp, kéo dài vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, việc nghiên cứu đưa ra giải pháp đồng bộ, thiết thực để xử l ý ý có hiệu quả hơn là vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới.

đ) Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Đây là một trong những nhiệm vụ được Uỷ ban thường vụ Quốc hội tiến hành thường xuyên và quan tâm đặc biệt, đã dành nhiều thời gian cho ý kiến việc sửa đổi, bổ sung Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, bước đầu đáp ứng với yêu cầu nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của 2 tổ chức quan trọng này nhằm đẩy mạnh hoạt động của chính quyền nhân dân các cấp, góp phần củng cố nhà nước vững mạnh. Triển khai thực hiện 2 luật này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phân công các thành viên theo dõi, tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân ở một số địa phương; giám sát cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004-2009.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã phối hợp với Chính phủ tổ chức Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân giữa nhiệm kỳ, tổ chức các hội nghị giao ban Hội đồng nhân dân các khu vực nhằm trao đổi kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Cùng với những đổi mới của Quốc hội, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp cũng có những chuyển biến đáng kể, nhất là hoạt động giám sát. Giám sát theo vấn đề và giám sát thông qua chất vấn tại các phiên họp định kỳ của Hội đồng nhân dân ngày càng khởi sắc và đã mang lại hiệu quả tích cực, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ, khẳng định vị trí quan trọng của Hội đồng nhân dân và đảm bảo để nhân dân thực hiện quyền làm chủ thực chất hơn.

e) Việc chuẩn bị dự kiến chương trình và triển khai thực hiện chương trình giám sát của Quốc hội.

            Kết quả nổi trội trong nhiệm kỳ là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đó chỉ đạo việc soạn thảo và trỡnh Quốc hội thụng qua Luật hoạt động giỏm sỏt của Quốc hội làm cơ sở phỏp lý cho hoạt động này. Sau khi cú Luật, việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có bước phỏt triển khỏ.

Vào cuối mỗi năm, trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ý kiến của cử tri cả nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã dự kiến các nội dung đưa vào chương trình giám sát của Quốc hội trong năm tới. Việc xây dựng chương trình hoạt động giám sát hàng năm có ý nghĩa rất quan trọng nhằm định hướng hoạt động giám sát của Quốc hội trong năm, là cơ sở để các cơ quan của Quốc hội xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện và kiểm điểm, đánh giá hoạt động giám sát của cơ quan mình một cách chủ động, khoa học hơn.

            Để thực hiện chương trình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chủ động ban hành văn bản phân công và kế hoạch thực hiện chi tiết ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết. Trên cơ sở các văn bản đó, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội xây dựng kế hoạch cụ thể và tiến hành các hoạt động giám sát của mình theo tiến độ chung.

            Mặc dù đã có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả quan trọng nhưng hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội vẫn còn một số mặt hạn chế là:

            - Việc dự kiến chương trình hoạt động giám sát hàng năm của Quốc hội vẫn chú trọng nhiều về số lượng, đôi khi chưa phù hợp với khả năng thực hiện. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu rút kinh nghiệm và hoàn thiện hơn trong thời gian tới.

- Chất lượng hoạt động giám sát là vấn đề đáng quan tâm. Do phụ thuộc nhiều vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát mà thiếu những kênh thông tin độc lập, chính xác, khách quan nên kết quả bị hạn chế; việc thực hiện kiến nghị sau giám sát vẫn chưa triệt để, chưa có chế tài xử l ý khi cơ quan chịu sự giám sát không thực hiện các kiến nghị đúng đắn sau giám sát.

            - Công tác giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, giám sát khiếu nại, tố cáo đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả chưa rõ nét, chưa tạo được sự chuyển biến đáng kể; chưa có sự phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan hữu quan.

- Luật hoạt động giám sát chưa được phát huy đầy đủ hiệu lực, cần tổng kết rút kinh nghiệm, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản hướng dẫn một số vấn đề cũn vướng mắc để tăng tính hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.

4-        Việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội.

a) Việc chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội:

Trong tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, vị trí, vai trò của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội ngày càng được nâng lên. Khối lượng công việc mà Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thực hiện ngày càng nhiều, đặc biệt là trong hoạt động lập pháp và giám sát. Việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội sẽ giúp Hội đồng, Uỷ ban, tránh chồng chéo công việc, hoạt động hiệu quả hơn.

Trong công tác xây dựng pháp luật , Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phân công Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết và các báo cáo, dự án khác theo tiến độ đã được xác định. Đối với mỗi dự án, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều phân công một Ủy ban chủ trì thẩm tra, các Uỷ ban khác có liên quan phối hợp thẩm tra, trong đó có Uỷ ban pháp luật với nhiệm vụ đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Trong hoạt động giám sát , hàng năm Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân công Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội thực hiện các nội dung thuộc chương trình giám sát của Quốc hội và các nội dung khác theo yêu cầu của Quốc hội; giao Hội đồng, Uỷ ban giám sát một số vấn đề trong chương trình giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đồng thời, để bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã yêu cầu Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội thực hiện một số hoạt động giám sát ở cùng một cơ quan, địa phương, đơn vị. Hàng tháng, hàng quý, Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm tập hợp, tổng hợp các hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội để qua đó nắm được tình hình đồng thời có cơ sở để điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban hiệu quả hơn.

Công tác chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội tuy có tiến bộ hơn các nhiệm kỳ trước, song vẫn chưa thật sự hợp lý, nhịp nhàng. Nhiều lúc công việc vẫn dồn vào một số Uỷ ban; nhiều địa phương vẫn có ý kiến là phải tiếp nhiều Đoàn công tác trong cùng một thời gian. Việc điều hoà, phối hợp trong hoạt động đối ngoại chưa thực hiện được bao nhiêu, tình trạng cùng thời gian có nhiều Đoàn của các cơ quan Quốc hội đến thăm và làm việc tại một nước với cùng một nội dung, vừa lãng phí, vừa kém hiệu quả, mặt khác cũng làm cho nước đón tiếp khó hiểu.

b) Công tác hướng dẫn và tạo điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội:

Trong nhiệm kỳ qua, đáp ứng yêu cầu hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách ở cả trung ương và địa phương, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo việc chuẩn bị và ban hành một số văn bản quy định về nhiệm vụ quyền hạn, nội dung hoạt động, mối quan hệ công tác, điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách, đồng thời tổ chức một số cuộc họp để các đại biểu phản ánh về tình hình tổ chức và hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội, những vấn đề liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương.

Để nâng cao chất lượng công tác tham mưu, giúp việc các đại biểu Quốc hội ở địa phương, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đồng thời ban hành một số chế độ, định mức chi tiêu tài chính phục vụ hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phối hợp với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết hướng dẫn việc đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri; hướng dẫn các nội dung quy định trong Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và việc chất vấn của đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội.

5-        Việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ 2002-2007, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động và diễn biến phức tạp, toàn cầu hóa và hợp tác khu vực như một xu thế tất yếu. Yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới của nước ta đòi hỏi phải tăng cường các quan hệ đối ngoại cả bề rộng và chiều sâu. Trong việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo củng cố và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nghị viện nhằm không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị trên nhiều lĩnh vực cụ thể, thiết thực, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của Quốc hội và đất nước. Trong quan hệ đối ngoại song phương, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cụ thể việc tổ chức và thực hiện chương trình các chuyến thăm hữu nghị chính thức giữa các đoàn đại biểu Quốc hội nước ta với nghị viện 61 nước trên thế giới, đón tiếp và tổ chức làm việc với khoảng 150 đoàn đại biểu nghị viện từ 40 nước thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới đến thăm và làm việc với Quốc hội ta[1]. Trong quan hệ đối ngoại đa phương, cùng với việc chủ động thành lập các Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta tham gia các hội nghị, diễn đàn liên nghị viện, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo việc tổ chức các hội nghị, diễn đàn của các Tổ chức liên nghị viện khu vực và quốc tế do Quốc hội ta đăng cai.

So với nhiệm kỳ trước, trong nhiệm kỳ này, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chú trọng việc đưa hoạt động đối ngoại song phương lẫn đa phương đạt được những bước tiến sâu rộng và thực chất hơn. Hoạt động đối ngoại đã mang lại những kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ đối ngoại đặt ra trong toàn khóa là củng cố, hoàn thiện quan hệ ổn định, lâu dài với các đối tác hàng đầu; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và tăng cường hoạt động đối ngoại trên các diễn đàn đa phương, khu vực và trên thế giới; phát huy vai trò và vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó, đặc biệt củng cố, phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia, các nước ASEAN nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với Mỹ theo tinh thần hợp tác cùng có lợi; mở rộng và tăng cường quan hệ với các nước Châu Âu, Đông Bắc Á, Châu Đại dương; khai thông và phát triển quan hệ với Nghị viện các nước thuộc khu vực Trung, Nam Mỹ và Châu phi; tích cực chủ động tham gia và có nhiều đóng góp hiệu quả vào các diễn đàn nghị viện khu vực và trên thế giới như Liên minh nghị viện thế giới (IPU), Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO), Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF), Diễn đàn nghị viện Châu Á – Thái Bình Dương (APPF), Hiệp hội nghị viện Châu Á vì hòa bình (AAPP)…

Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng chú trọng việc điều hòa hoạt động đối ngoại, tổ chức hoặc cử các đoàn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội khảo sát, nghiên cứu tại các nước hoặc dự các hội nghị, diễn đàn của các tổ chức liên nghị viện nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể về đối ngoại nghị viện. Tháng 12-2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Quy chế hoạt động đối ngoại của các cơ quan của Quốc hội quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội và các Ban của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo đó, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã diễn ra quy củ, định hướng trọng tâm hơn, đồng thời mở rộng được phạm vi, nội dung hoạt động đối ngoại của các cơ quan này.

Dù đã đạt được những bước tiến lớn, công tác đối ngoại của Ủy ban thường vụ Quốc hội vẫn chưa tránh khỏi một số hạn chế như đã nói ở điểm 4 (chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội) trên đây. Trong nhiệm kỳ tới phải khắc phục để hoạt động đối ngoại đem lại hiệu quả cao hơn nữa.  

6-        Công bố và chủ trì cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII

Căn cứ các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, từ tháng 10 năm 2006, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII. Tại phiên họp tháng 1-2007, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc công bố ngày ngày bầu cử và thành lập Hội đồng bầu cử. Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII được ấn định là 20-5-2007. Hội đồng bầu cử gồm 21 thành viên đang thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Ba tiểu ban phục vụ cuộc bầu cử đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập gồm: Tiểu ban thông tin tuyên truyền, Tiểu ban giải quyết khiếu nại tố cáo và Tiểu ban đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho cuộc bầu cử.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử trong cả nước và số đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử; dự kiến cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số, số đại biểu Quốc hội là phụ nữ; điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được bầu làm đại biểu Quốc hội.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch và phân công các thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội tiến hành kiểm tra, giám sát việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử tại các địa phương; giao Uỷ ban quốc phòng và an ninh chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan giám sát công tác bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, phục vụ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII để báo cáo Quốc hội khoá XII tại kỳ họp thứ nhất.

 

II-      VỀ TỔ CHỨC, CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC VÀ MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

1.        Về cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và các phiên họp

Uỷ ban thường vụ khoá XI có 13 thành viên, gồm Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch và 9 Uỷ viên. Có 1 Phó Chủ tịch kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban, 1 Uỷ viên là Chủ tịch Hội đồng dân tộc, 6 Uỷ viên là Chủ nhiệm Uỷ ban, 1 Uỷ viên phụ trách công tác dân nguyện và 1 Uỷ viên là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.

Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành phân công trách nhiệm cho từng thành viên chỉ đạo trực tiếp chuẩn bị các nội dung hoặc điều hành những nội dung mà mình phụ trách tại các phiên họp, kỳ họp. Trong đó, Chủ tịch Quốc hội chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, 3 Phó Chủ tịch Quốc hội được phân công phụ trách cụ thể về các lĩnh vực. Các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngoài việc thực hiện các công việc của cơ quan do mình phụ trách, phải dành thời gian thoả đáng cho các hoạt động chung của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ này (tính đến tháng 3-2007), Uỷ ban thường vụ Quốc hội tiến hành 47 phiên họp để chuẩn bị cho 11 kỳ họp Quốc hội, 8 phiên họp đại biểu chuyên trách. Xác định các phiên họp thường kỳ là hình thức hoạt động chủ yếu của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo thực hiện tốt các khâu, từ chuẩn bị chương trình, nội dung đến việc phân công cụ thể cho mỗi thành viên phụ trách, bảo đảm chất lượng và tiến độ. Sau khi xem xét, thảo luận, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều có kết luận đối với từng nội dung để các cơ quan có cơ sở tiếp thu, chỉnh lý văn bản. Các pháp lệnh, nghị quyết được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua đạt sự thống nhất cao, chất lượng văn bản ngày càng được nâng lên; các pháp lệnh, nghị quyết được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua đều được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Trong nhiệm kỳ này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quyết định mời báo chí tham dự và đưa tin để phản ảnh kịp thời các hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sự đổi mới này nhằm phát huy dân chủ, từng bước công khai hoá các hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Từng nội dung của phiên họp đều được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng để cử tri và nhân dân theo dõi và nắm bắt kịp thời những quyết sách mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Mặc dù số lượng thành viên ít hơn so với nhiệm kỳ Quốc hội khoá X, nhưng nhỡn chung do có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên và thực hiện chế độ làm việc hợp lý nên Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã hoàn thành khối lượng công việc khá lớn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới hoạt động của Quốc hội. Tuy vậy, do số lượng thành viên ít, phần lớn là kiêm nhiệm, một số đồng chí phải dành nhiều thời gian cho công việc của Uỷ ban nên việc tham gia các hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cú bị hạn chế. Mặt khác, số Phó Chủ tịch Quốc hội giảm đi 2 người so với khoỏ X, trong khi phạm vi hoạt động của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội lại rộng nên việc quán xuyến, chỉ đạo một số công việc chưa thật sát sao, kịp thời lắm.

2. Về mối quan hệ công tác với các cơ quan, tổ chức hữu quan

Đây là một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nói riêng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung.

Trong nhiệm kỳ này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã có sự phối hợp chặt chẽ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan khác. Phần lớn các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đại diện các cơ quan hữu quan đều dự và đóng góp nhiều ý kiến. Lãnh đạo Quốc hội và lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội, tổ chức hữu quan đó bàn bạc để thống nhất trong việc chuẩn bị nội dung của các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, như việc chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các báo cáo về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; tiến hành giám sát việc triển khai thi hành luật, pháp lệnh; giám sát việc triển khai thực hiện các công trình quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu; tiến hành giám sát các vấn đề xã hội bức xúc mà đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm.

Với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cùng thoả thuận ban hành Quy chế phối hợp công tác quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi chủ thể trong việc phối hợp công tác: bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, xây dựng pháp luật, hoạt động giám sát... Đồng thời Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng ban hành Nghị quyết liên tịch về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.

Về Bộ máy giúp việc, ngày 1 tháng 10 năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 417/2003/UBTVQH11 sửa đổi Nghị quyết số 02 NQ/UBTVQH9 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội. Theo đó vừa khuyến khớch tổ chức bộ mỏy hợp lý, khoa học, hoạt động cú hiệu lực và hiệu quả; khuyến khích việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; khuyến khích việc đào tạo và tuyển dụng chuyên gia, cán bộ, chuyên viên giỏi về pháp lý, về quản lý kinh tế, quản lý nhà nước... Đồng thời, chú trọng chỉ đạo việc cải tiến, đổi mới chế độ và lề lối làm việc của cơ quan phục vụ, xây dựng tốt mối quan hệ công tác giữa Văn phòng Quốc hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan.

Trong nhiệm kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã quyết định thành lập ba Ban chuyên môn trực thuộc là Ban công tác đại biểu, Ban công tác lập pháp, Ban dân nguyện. Việc thành lập và hoạt động của các Ban trong thời gian qua đã giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ và quyền hạn của mình, đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ Quốc hội giao.

Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới, bộ máy giúp việc của Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội vẫn chưa ngang tầm với công việc (còn thiếu các bộ phận giúp việc cần thiết như nghiên cứu khoa học, soạn thảo các dự án..., thiếu nhiều cán bộ, nhất là những chuyên gia giỏi). Cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhất là nơi làm việc gây rất nhiều khó khăn cho việc quản lý, điều hành của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

3.        Về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Với tinh thần đó, trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội luôn bám sát các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng. Thông qua Đảng đoàn Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã có những đề xuất cụ thể trong từng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết để bảo đảm chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thực thi thông qua luật pháp của Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ qua, việc báo cáo, xin ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội cũng như việc xem xét, cho ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục được đổi mới. Theo đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ cho ý kiến chỉ đạo đối với những vấn đề đặc biệt quan trọng, nhạy cảm và những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau; còn các vấn đề khác Đảng đoàn Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo và tự chịu trách nhiệm.

 

III-  BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

1.        Bài học kinh nghiệm.

Qua thực tiễn hoạt động và kết quả đạt được của nhiệm kỳ khoá XI, Uỷ ban thường vụ Quốc hội rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

a) Là cơ quan thường trực của Quốc hội, được Quốc hội (thông qua Luật tổ chức Quốc hội) giao những nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng, trong hoạt động của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội luôn đề cao trách nhiệm trước Quốc hội, trước nhân dân. Hiệu quả hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội có tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Ý thức được tầm quan trọng đó, mỗi thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội luôn đặt quyền và lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, toàn tâm toàn sức cho hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội; đóng góp công sức với mức cao nhất để chuẩn bị cho Quốc hội quyết định những chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp với quyền và lợi ích của nhân dân.

b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, vì vậy sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trong nhiệm kỳ này, các pháp lệnh, nghị quyết và các vấn đề quan trọng khác được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua đều đạt tỷ lệ thống nhất cao. Tại các phiên họp, các thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều thảo luận công khai, thẳng thắn với tinh thần trách nhiệm cao để tìm được tiếng nói chung thống nhất. Từng thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong hoạt động của mình luôn gắn trách nhiệm với công việc chung của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội.

c) Công việc của Quốc hội là công việc của nhà nước, của toàn dân, vì vậy sự phối hợp công tác thường xuyên, có hiệu quả với các cơ quan hữu quan như một nguyên tắc trong hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Kinh nghiệm hoạt động trong nhiệm kỳ cho thấy, nếu có sự phối hợp chặt chẽ trong nhiều công việc với Chủ tịch nước, với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, với Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan thì các công việc sẽ tiến triển tốt, đúng kế hoạch, đạt chất lượng cao. Tuy nhiên, việc phối kết hợp phải trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và phải xây dựng thành các quy chế phối hợp.

d) Hiệu quả hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Sự lãnh đạo thường xuyên và hiệu quả của Đảng có tính chất định hướng cho các hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Vì vậy, bảo đảm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là một tất yếu khách quan. Đồng thời, cũng phải đề cao tính năng động, chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trước Quốc hội, trước nhân dân của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

đ) Tổ chức bộ máy của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qua thực tiễn nhiệm kỳ khoá XI cho thấy phải bảo đảm đủ số lượng để vừa quán xuyến đầy đủ mọi lĩnh vực, vừa bảo đảm làm tròn nhiệm vụ (cả nhiệm vụ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cả nhiệm vụ của Hội đồng, Uỷ ban và các cơ quan phục vụ).

 

2.             Một số kiến nghị

Để chuẩn bị cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII, Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá XI xin kiến nghị với Quốc hội một số vấn đề sau:

- Về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, đề nghị Quốc hội quy định cụ thể hơn trong Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội từng nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quy trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và quan hệ công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội với nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.

- Về cơ cấu tổ chức, để đáp ứng khối lượng công việc ngày càng cao trong nhiệm kỳ tới, đề nghị Quốc hội tăng số lượng thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội lên khoảng 17 đến 19 người và nên có một số Uỷ viên chuyên trách. Đồng thời tăng số Phó Chủ tịch Quốc hội lên 4 đến 5 người để giúp Chủ tịch Quốc hội phụ trách các lĩnh vực hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

- Về chế độ làm việc, cần tiếp tục cải tiến cách thức tiến hành các phiên họp thường kỳ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm chất lượng hơn; nghiên cứu cải tiến quy trình xem xét, quyết định một số nội dung như: cho ý kiến về các dự án luật, báo cáo, thông qua pháp lệnh, nghị quyết... Uỷ ban thường vụ Quốc hội cần tăng cường hơn nữa việc điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội tập trung vào công tác lập pháp, giám sát và đối ngoại; định kỳ tổ chức các cuộc làm việc chung giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội với Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội để nghe các cơ quan báo cáo và kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra.

- Trong việc thực hiện quan hệ đối ngoại, Ủy ban thường vụ Quốc hội cần sớm chỉ đạo việc dự kiến chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hàng năm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; chỉ đạo việc theo dõi, tổng hợp, điều hòa hoạt động đối ngoại của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban, các cơ quan phục vụ  nhằm hướng tới mục tiêu chung của hoạt động đối ngoại của Quốc hội ta, góp phần đạt được các mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị, bảo vệ Tổ quốc.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội đối với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, tạo sự thống nhất cao trong việc thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng bằng pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua.

- T iếp tục củng cố và tăng cường các cơ quan tham mưu, phục vụ của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Văn phòng Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội .  Bộ máy giúp việc phải được tổ chức hợp lý, ngang tầm với công việc, nâng cao hiệu lực bộ máy, hiệu quả phục vụ, nâng cao chất lượng cán bộ, chuyên gia, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính .

*

*       *

Trên đây là báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong nhiệm kỳ khoá XI. Xin kính trình Quốc hội.

 

                                                            T/M UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

                                                                                         Chủ tịch

 

                                               

 

 

 

                                                                                    Nguyễn Phú Trọng



[1] Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Ủy ban đối ngoại Quốc hội khóa XI

Các văn bản liên quan