Góp ý của ĐBQH Nguyễn Thanh Thụy – Bình Định đối với dự thảo Luật đất đai sửa đổi

Thứ Sáu 16:07 21-12-2012


Kính thưa Quốc hội.

Tôi xin tham gia vào các vấn đề sau đây, vấn đề thứ nhất, thời hạn giao đất và cho thuê đất nông nghiệp đối với các hộ gia đình và cá nhân. Theo tôi ngoài việc có những quy định mới để quản lý và phát huy nguồn lực đất đai là tốt hơn nhưng cũng cần tính đến những tồn tại hiện nay  như bảo vệ quyền và lợi ích của người nông dân. Tôi đồng ý với phát biểu của đại biểu Thường ở Thái Bình. Thời gian giao đất như dự thảo luật là khá dài, sẽ có một bộ phận người dân sống ở nông thôn có thể coi là một thế hệ không có đất sản xuất, thời điểm giao đất 20 năm chỉ còn mấy tháng nữa là hết thời hạn. Theo quy định hiện hành từ sau ngày 15 tháng 10 năm 1993, số nhân khẩu phát sinh không được chia đất nông nghiệp, mặt khác còn tình trạng nhiều hộ được giao đất không có nhu cầu sử dụng đất đã chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê đất nông nghiệp hoặc người được cấp đất đã chuyển hẳn về thành phố sinh sống hoặc đã chết. Thực trạng đó cho thấy một bộ phận người nông dân được giao đất, nhưng không có nhu cầu sử dụng, mặt khác một bộ phận khác thực sự cần đất nông nghiệp thì không có đất để sản xuất. Vấn đề này đã được cử tri kiến nghị rất nhiều lần và họ hy vọng qua sửa đổi Luật đất đai lần này sẽ được xem xét vấn đề này. Hiện nay mới có số liệu về đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất mà chưa có số liệu chung cả nước, nông dân thiếu đất ở, đất sản xuất là bao nhiêu, dự thảo luật quy định theo hướng không giao lại đất nông nghiệp có thể giảm thiểu công việc quản lý về đất đai, trong điều kiện đất đai không sinh ra, nhưng nếu không nghiên cứu từng trường hợp cụ thể sẽ có những bất cập thiệt thòi, không công bằng cho người nông dân, không có tư liệu sản xuất. Với chủ trương không xem xét lại việc giao đất mà quỹ đất dành cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp thì những người sinh ra sau từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến 50 năm nữa, họ sẽ sinh sống ra sao. Thiết nghĩ cần có những đánh giá về thực trạng sử dụng đất trên toàn quốc để có những quy định phù hợp. Vì vậy, tôi đề nghị cùng với việc quy định thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân lâu dài nhằm mục đích tạo điều kiện cho người nông dân yên tâm đầu tư sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng đất, Bộ tài nguyên và môi trường, Ban soạn thảo cần nghiên cứu vấn đề này để có quy định giải quyết những bất cập nêu trên nhằm đảm bảo mọi người nông dân đều có đất sản xuất, ổn định cuộc sống, họ là lực lượng bảo đảm an ninh lương thực cho xã hội ngay cả trong khi kinh tế phát triển, nhất là trong điều kiện kinh tế khó khăn.

Vấn đề thứ hai, tôi rất thống nhất với nhiều ý kiến về vấn đề giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số việc chuyển nghề, chuyển địa bàn sinh sống không gắn với rừng, đất sản xuất là một vấn đề vô cùng khó khăn, giải quyết vấn đề đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Bởi vì đất đai gắn với việc làm, với đời sống văn hóa, với đời sống tinh thần của bà con, đặc biệt gắn với việc bảo vệ lãnh thổ quốc gia. Do đó, tôi đề nghị Khoản 4, Điều 96 nên sửa lại theo hướng quy định rõ miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng biên giới. Vì thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số rất thấp và không ổn định. Ngoài ra Ban soạn thảo cần nghiên cứu nên bổ sung một số quy định có tính nguyên tắc về bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số trong lĩnh vực đất đai. Bổ sung những quy định nghiêm cấm việc đầu cơ, mua bán, chiếm đất trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới và đi kèm là chế tài xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng lòng tin của bà con để thôn tính chiếm đất đã được nhà nước giao ổn định ổn định lâu dài cho bà con.

Vấn đề thứ ba, quy định ở Điều 53 trường hợp thu hồi đất trồng lúa, đất trồng rừng phòng hộ, đất trồng rừng để chuyển sang mục đích khác thì còn phải có văn bản chấp thuận cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Thủ tướng Chính phủ. Theo tôi quy định như vậy là không cần thiết. Mặc dù đây là một quy định theo hướng để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực phát triển rừng bền vững tuy nhiên nếu quy định như dự thảo luật sẽ tạo ra nhiều áp lực và trách nhiệm cho Thủ tướng Chính phủ và sẽ tạo ra những ách tắc đối với địa phương, có những trường hợp diện tích thu hồi chỉ vài hécta.

Tôi đề nghị chỉ cần quy định trong trường hợp các địa phương chưa có quy hoạch sử dụng đất thì các trường hợp thu hồi đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để chuyển sang mục đích khác mới cần Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bằng văn bản.Còn những địa phương đã lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì thực hiện các nội dung quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tương tự như vậy Khoản 2, Điều 62 về cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cũng cần quy định theo hướng như trên.

Vấn đề cuối cùng, về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đây là một trong những nội dung cơ bản của Luật đất đai. Thời gian qua nguyên nhân khiếu nại, khiếu kiện liên quan chủ yếu về giá đất bồi thường do nhà nước xác định thường thấp hơn nhiều so với giá đất thị trường từ 30 - 60%. Chính sách đền bù thay đổi liên tục thường chính sách sau mở rộng và cao hơn chính sách trước tạo ra những suy bì trong số những người có đất bị thu hồi.

Qua thực tế nói trên cho thấy các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai hiện hành là không đáp ứng được yêu cầu. Do đó, về cơ bản tôi thống nhất với 6 nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, điều tôi băn khoăn nhất là cụm từ "được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu hồi được quy định tại Khoản 1 Điều 71". Điều này so với luật hiện hành tôi thấy không có điều gì mới. Thực chất đây là nội dung được quy định tại Khoản 2, Điều 42 của Luật đất đai hiện hành, nếu chỉ căn cứ vào mục đích sử dụng cùng loại đất thu hồi để bồi thường dễ xảy ra tình trạng không công bằng vì thực chất cùng một mục đích sử dụng nhưng rõ ràng giá đất ở từng nơi có khác nhau vì giá đất không chỉ được quy định bởi mục đích sử dụng mà còn chịu tác động của nhiều yếu tố như vị trí, hạ tầng, khoảng cách đến trung tâm, đến trục đường chính, cảnh quan, môi trường v.v... Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần tính đến các yếu tố nói trên để có quy định phù hợp hơn. Xin hết.

Các văn bản liên quan