Biên bản Hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định 85/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý thuế do VCCI tổ chức

Thứ Hai 10:15 09-11-2009

HỘI THẢO LẤY Ý KIẾN DOANH NGHIỆP VỀ DỰ THẢO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NGHỊ ĐỊNH 85/2007/NĐ-CP HƯỚNG DẪN LUẬT QUẢN LÝ THUẾ

Ông Trần Hữu Huỳnh

-         Chúng ta đang ở trong thời điểm có nhiều thử thách khó khăn đối với cải cách hành chính ở nước ta. Theo Doing business của WB, nước ta xếp hạng 91/180 nước về mức độ thuận lợi trong kinh doanh, chúng ta đứng đầu của tốp cuối chứ không phải là đứng đầu của tốp đỏ. Đông Nam Á có hai quốc gia đáng để tham khảo, Singapore liên tục đứng đầu, Thái Lan có những nỗ lực rất lớn, liên tục có cải cách. Trong 10 chỉ số thành phần đó, chỉ số thành phần thấp nhất là liên quan đến vấn đề thuế và xuất nhập khẩu. Liên tục trong 4 năm vừa rồi, WB xếp chúng ta mức độ thì giờ doanh nghiệp bỏ ra để làm thuế là 1050 giờ, tất nhiên thuế có giải trình là 400 giờ làm bảo hiểm xã hội, hơn 600 giờ làm thuế. Chúng ta xếp thứ 124/180 quốc gia được đưa vào nghiên cứu mức độ về thuế. Một báo cáo chung nữa Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách trường ĐH Kinh tế ĐH Quốc gia Hà Nội, ngoài thuế ra, các lĩnh vực khác, trung bình mỗi doanh nghiệp phải mất 29,1% quỹ thời gian để giải quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính. Hà Nội tỷ lệ này là 44,5%, thành phố Hồ Chí Minh là 38,7%, điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ còn 50% đến 70% quỹ thời gian để lo cạnh tranh trên thị trường, quản lý doanh nghiệp. Còn vấn đề thực thi để áp dụng, chúng tôi có làm một khảo sát, PCI đo lường năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, trong đó quan hệ đối với cơ quan thuế ở địa phương, 8000 doanh nghiệp, tin mừng là mấy năm vừa qua mức độ tuyên truyền, phổ biến cung cấp thông tin về thuế là tốt, điều này phản ánh rằng, chính sách của bộ tài chính và Tổng Cục thuế thành lập các tổ tư vấn thuế ở địa phương là tốt nhưng vấn đề hành thu còn có nhiều vấn đề. Liên tục trong 3 năm qua, khoảng 70% doanh nghiệp được hỏi có phải “bôi trơn” không để thương lượng về thuế, họ vẫn giữ con số là 70%, khi “bôi trơn” như vậy, công việc có “chạy” không thì họ đều khẳng định là có “chạy” hơn. Đây là một con số để chúng ta nói cải cách hành chính không chỉ đơn thuần trên giấy tờ mà vấn đề con người nữa. Cho nên, bộ quy tắc về thủ tục và vấn đề con người phải đi đôi với nhau. Trên tinh thần như vậy, hôm nay, chúng ta làm vấn đề thứ nhất, những quy định pháp luật, những hồ sơ trình tự thủ tục có được cái đó đi trước, vấn đề con người đi song song với nó thì chúng ta có thể cải cách được. Mong muốn của các nhà lãnh đạo là cắt giảm 30% thủ tục hành chính nói chung và trong đó có thủ tục về thuế nói riêng. Với 600 giờ, cắt giảm 30% có thể cắt giảm được 200 giờ, chỉ còn 400 giờ. Trong khi đó Singapore chỉ mất 84 giờ, trong khi của ta lại mất đến 1000 giờ, gấp cả quốc gia được coi là chậm thủ tục là Indonexia, gấp đến 5 lần họ.

-         Việc sửa đổi các quy tắc của pháp luật là vấn đề của Nhà nước và phải đi tiên phong trong vấn đề này, không thể nói doanh nghiệp cạnh tranh được trong khi năng lực phục vụ hành chính của doanh nghiệp không thể cải tiến được.

-         Chúng tôi vui mừng được giới thiệu với mọi người, những người trực tiếp liên quan đến việc sửa đổi Nghị định 85 để hướng dẫn Luật quản lý thuế, liên quan trực tiếp đến thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, ông Phạm Đình Thi Phó vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính, ông Cao Anh Tuấn Trưởng ban chính sách – Tổng Cục thuế, một cựu quan chức bây giờ trở thành người của chúng ta – khối doanh nghiệp, bà từng là Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn thuế. Danh sách của doanh nghiệp được mời có lựa chọn, những doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất, những doanh nghiệp tư vấn về thuế, những luật sư, luật gia, những nhà tư vấn chuyên nghiệp về thuế. Thay mặt Ban tổ chức nhiệt liệt chào mừng các anh, các chị.

-         Chúng tôi đề xuất: thứ nhất, đại diện ban soạn thảo Dự thảo Nghị định trình bày về những nội dung xin ý kiến, thứ hai chúng ta sẽ thảo luận về những vấn đề mà đại diện ban soạn thảo nên trên tinh thần quyết liệt, kiên quyết. Ngoài ra chúng tôi có gửi cho quý vị một bảng câu hỏi và kì vọng được nhận 100 câu trả lời vì các anh chị là những người làm chuyên nghiệp. Trong bản câu hỏi có 9 trang, gồm 14 vấn đề trong đó, có 2 vấn đề liên quan trực tiếp đến Dự thảo Nghị định, 12 vấn đề liên quan đến những công việc hang ngày của các anh, chị về thủ tục, hồ sơ, trình tự. Ngoài ra còn có đại diện của tổ đề án 30 có mặt tại Hội thảo này.

Ông Phạm Đình Thi

-         Nhiệt liệt và cảm ơn sự hiện diện của các doanh nghiệp có mặt tại hội thảo ngày hôm nay. Trong quá trình xây dựng chính sách, chúng tôi được sự tham gia, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của các quý doanh nghiệp, thuộc diện điều chỉnh của chính sách để làm cho chính sách của chúng ta đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ Tài chính đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, đã đạt được một số thành tích nhất định, đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế của đất nước, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần vào việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn hạn chế so với mục tiêu yêu cầu đặt ra, và vẫn còn ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực.

-         Như vậy, thực hiện chương trình công tác của Chính phủ, Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi Nghị định 85 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế. Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để phù hợp với thực tế quản lý được sự đồng ý của lãnh đạo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Tài chính phối hợp với VCCI tổ chức lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp ngày hôm nay. Qua theo dõi, tổng hợp, hiện nay trong quá trình nghiên cứu xây dựng Dự thảo Nghị định, chúng tôi thấy nổi lên ba nhóm vấn đề cần phải được đưa vào sửa đổi trong Nghị định 85 này.

+ Nhóm thứ nhất: Khắc phục những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật quản lý thuế. Như chúng ta đã biết, Luật Quản lý thuế và Nghị định 85 đã đánh dấu bước cải cách quan trọng trong công tác quản lý thuế của Nhà nước, thực hiện cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế, tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế. Luật đã thống nhất các quy trình thủ tục về quản lý thuế trong nhiều luật và các văn bản về thuế. Trước khi ban hành Luật thuế, các quy định về quản lý thuế nằm rải rác trong các luật và pháp lệnh về thuế. Xác định các nguyên tắc, các thủ tục, các quy trình, phân loại đối tượng, các phương pháp nhất quán và phù hợp với yêu cầu tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế, nâng cao vai trò của người nộp thuế. ĐIều tất yếu trong quá trình thực hiện Luật thuế và Nghị định 85 qua quá trình thực hiện đã có những vướng mắc phát sinh đặc biệt là vấn đề khai thuế, đăng ký thuế, ấn định thuế, xác định nợ thuế, phân loại đối tượng, phương pháp quản lý thuế tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và người nộp thuế khác, Bộ Tài chính đề nghị trong Hội thảo này, các quý vị nêu các vướng mắc mà trong thời gian thực hiện Luật quản lý thuế vừa qua chúng ta đang mắc phải. Hiện nay, theo chỉ đạo của Chính phủ, một số thủ tục về thuế mà chúng ta đã và đang làm, cấp phép, cấp đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, cấp dấu chúng ta đã thực hiện liên thông một cửa.

+ Nhóm thứ hai: Đảm bảo sự phù hợp, thống nhất về nội dung quản lý thuế giữa Luật Quản lý thuế và các Luật thuế mà Quốc hội vừa thông qua. Luật Quản lý thuế được QH thông qua năm 2006, có hiệu lực từ 1.7.2007. Năm 2007, Quốc hội thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân, 2008 QH thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Tại kì họp QH lần này, QH tiếp tục thông qua Luật thuế tài nguyên, và cho ý kiến Luật thuế nhà, đất, dự kiến Luật thuế Nhà đất sẽ được thông qua vào kì họp tháng 6.2010. Trong quá trình xây dựng các luật thuế mới, những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện luật quản lý thuế và những yêu cầu về quản lý theo chính sách mới đã được đưa vào các luật và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân thay thế cho thuế dành cho người có thu nhập cao từ 1.1.2009. Trong Luật Quản lý thuế và Nghị định 85 chỉ có quy định về quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Như vậy, các nội dung quy định về Luật thuế thu nhập cá nhân và các nội dung thay đổi về quản lý thuế trong các Luật thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, tiêu thụ đặc biệt, sẽ được tập hợp trong Dự thảo Nghị định sửa NĐ 85 để đảm bảo thống nhất về các quy định về quản lý thuế.

+ Nhóm thứ ba: Cải cách thủ tục hành chính thuế nội địa và hải quan theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được TTg phê duyệt tại Quyết định 30 ngày 10.1.2007. Để triển khai Đề án 30, Bộ Tài chính hoàn thành giai đoạn một về rà soát và công bố bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước do Bộ Tài chính phụ trách. Đến nay, Bộ trưởng BTC đã ban hành 5 quyết định, công bố 840 bộ thủ tục hành chính kèm theo các mẫu đơn, mẫu tờ khai thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ tài chính. Phân loại theo lĩnh vực quản lý có 92 thủ tục thuộc lĩnh vực tài chính, ngân sách, 330 lĩnh vực thuế, lệ phí, phí, 9 thủ tục hành chính doanh nghiệp, 15 thủ tục quản lý tài chính công, 30 quản lý giá, 105 dịch vụ tài chính và các quỹ tài chính, 11 tài chính đối ngoại và hội nhập tài chính quốc tế, 239 thủ tục thuộc lĩnh vực hải quan, 9 lĩnh vực thuộc thanh tra, kiểm tra tài chính và lĩnh vực khác. Nhiệm vụ tiếp theo của giai đoạn triển khai Đề án 30 là rà soát, xác định định tính hợp pháp, sự cần thiết và tính hợp lý của 840 thủ tục hành chính đã được công bố để đơn giản hóa hoặc bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết. Trước 31.5.2010 mục tiêu là cắt giảm 30% số lượng thủ tục hành chính. Như vậy, đối với 330 thủ tục trong lĩnh vực thuế, phí, lệ phí là cắt giảm 30%, còn 220.

Đây là 3 nội dung chính, kì vọng các quý vị tham gia cùng ban soạn thảo của chúng tôi. Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế, tính thuế … các quý vị thấy còn vướng mắc, thời gian chưa hợp lý, thực tế quản lý mà cơ quan thuế chưa làm đúng, chưa làm đầy đủ. Chúng tôi muốn lắng nghe ý kiến của quý vị. Bộ Tài chính có chỉ đạo để làm sao giảm các thủ tục hành chính trong thời gian vừa qua. Như chúng ta biết, trong thời gian vừa qua tuy đã đạt được một số kết quả, còn tồn tại nhiều vướng mắc, hạn chế. Công tác cải cách hành chính luôn được quan tâm, nhưng còn một số cán bộ công chức còn chưa đạt yêu cầu, còn gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cải cách hành chính về thuế, hải quan còn liên quan đến cải cách các thủ tục hành chính của các ngành khác, nên phải tiến hành một cách đồng bộ của nhiêu cơ quan, Bộ ngành, các tổ chức, địa phương. Hiện nay, chúng ta chưa có mô hình chính phủ điện tử chung nên việc kết thông tin giữa các ngành còn gặp khó khăn. Sự chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ trong các quy trình thủ tục nghiệp vụ quan trọng với chuẩn mực quốc tế đã tạo ra trở ngại lớn trong cải cách hành chính, cũng như công tác hiện đại hóa của ngành thuế và hải quan. Điểm nữa, lực lượng công chức trực tiếp thực hiện các thủ tục thuế, hải quan còn mỏng, nên gặp nhiều trở ngại trong giải quyết khó khăn.

Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội Tư vấn thuế

-         Mục đích: Hội tư vấn thuế là cầu nối giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp, làm thế nào để vừa tạo thuận lợi cho người nộp thuế, để người nộp thuế được hưởng ưu đãi về thuế, được hoàn thuế thuận lợi nhất, nhanh nhất, rõ rang, minh bạch nhất đồng thời nâng cao hiệu lực của bộ máy thu thuế. Chúng tôi muốn hoạt động đại lí, tư vấn thuế của chúng ta phát triển. Hiện nay, các thủ tục hành chính về thuế còn chưa thông thoáng, còn một số cán bộ ngành thuế còn chưa tốt, nguyên nhân là cán bộ thuế còn làm trực tiếp nhiều với doanh nghiệp. Nếu như cán bộ không trực tiếp làm việc nhiều với doanh nghiệp, không trực tiếp tiến hành nhiều các thủ tục hành chính, nếu chúng ta thực hiện đúng thực hiện Điều 20 Luật quản lý thuế. Người nộp thuế có thể thông qua các đại lý thuế để thực hiện các thủ tục về thuế và chi phí này có thể được tính vào chi phí hợp lý để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Các đại lý thuế đã được kiểm nghiệm trình độ, trách nhiệm thông qua bằng cấp mà cơ quan có thẩm quyền cấp. Nếu doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ thuế thông qua các đại lý thuế thì có thể tiết kiệm được thời gian thay vì ở doanh nghiệp phải có người thông thạo tất cả các luật thuế, trong khi hệ thống pháp luật về thuế của chúng ta khá đồ sộ.

Tuy nhiên, Luật đã có hiệu lực hơn 2 năm, nhưng đến tháng 11 này, Tổng Cục thuế mới tổ chức kì thi để cấp chứng chỉ hành nghề đầu tiên. Sau kì thi cấp chứng chỉ hành nghề đầu tiên, sau đó mới có những người cấp chứng chỉ, những công ty muốn làm về đại lý thuế phải có ít nhất hai người được cấp chứng chỉ hành nghề. Như vậy, ít nhất sang năm, chúng ta mới có hoạt động của đại lý thuế. Hi vọng, các hoạt động về thuế của cơ quan thuế, doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn. Ở Nhật Bản, có 52.000 cán bộ thuế nhưng những người làm đại lý thuế là 72.500 người đại lý thuế có chứng chỉ hành nghề phục vụ cho 2,7 triệu người nộp thuế, trong đó có các doanh nghiệp trong tổng số gần 3 triệu người nộp thuế ở Nhật Bản. Không có một vụ việc rắc rối nào liên quan đến người nộp thuế vì họ không trực tiếp thực hiện các thủ tục về thuế. Hi vọng, Luật Quản lý thuế bổ sung điều khoản đó, sắp tới có các người làm về đại lí thuế sẽ góp phần làm cho hệ thống quản lý thuế của chúng ta rõ ràng, minh bạch hơn, hiệu quả, hiệu lực của cơ quan thuế  tốt hơn, người nộp thuế sẽ thuận lợi hơn.

·        Những góp ý cụ thể cho Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 85:

-          Hoàn toàn nhất trí ý kiến của cơ quan soạn thảo về tính tất yếu phải sửa đổi Nghị định. Bởi Nghị định này ra đời cách đây 2 năm và thời điểm hiện tại đã có 4 luật thuế mới, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế thu nhập cá nhân. Trong một số luật mới có một số quy định có tính cải cách. Như vậy, để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật về thuế (thuế nhập khẩu, thuế nội địa, phí, lệ phí), sửa đổi Nghị định 85 là cần thiết. 

Về nội dung cụ thể: Một số vấn đề cần cụ thể hơn:

-          Khai thuế thu nhập cá nhân:  đã sửa về khai thuế, từ Pháp lệnh thuế dành cho người có thu nhập cao tới thuế thu nhập cá nhân, trong Luật thuế thu nhập cá nhân có một số thay đổi toàn diện đó là bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất sang nộp thuế thu nhập đối với chuyển nhượng tài sản, những quy định về khai thuế cũng khác nhau. Khai thuế thu nhập cá nhân được quy định trong Dự thảo là chưa đủ, bởi có hai loại, một loại thuế dành cho thu nhập từ tiền lương, tiền công thực hiện khấu  trừ tại nguồn hoặc thu nhập từ đầu tư vốn, nhưng thu nhập từ kinh doanh lại là tự khai, có khai theo quý. Như vậy, khai thuế đối với thuế thu nhập cá nhân có 3 loại khai, một là khai theo tháng, hai là khai theo quý, ba là khai theo từng lần phát sinh. Như vậy trong phần khai phải tách ra từng phần cho phù hợp. Ví dụ: khai thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công thì khai theo biện pháp khấu trừ và khai theo tháng, nhưng đối với tiền lương, tiền công nhận từ nước ngoài lại khai theo tháng cùng thu nhập từ kinh doanh, nhưng lại là khai theo quý. Ngay cả khi nộp nếu thuế thu nhập cá nhân nộp ít hơn sẽ được khai theo quý trong trường hợp từ 5 triệu đồng trở xuống. Như vậy các yếu tố khai tháng, khai quý, khai từng lần trong thuế thu nhập cá nhân cần phải làm rõ để tương ứng, nếu chúng ta quay lại một thứ lại không đúng với kê khai loại thuế này. Thứ hai, về nội dung của thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt, bổ sung chuyển từ khai thuế nhập khẩu sang khai thuế đối với hàng nhập khẩu là phù hợp, tuy nhiên, đề nghị tách ra làm hai phần, vì trong phần nhập khẩu về, cơ quan quản lý là cơ quan hải quan sẽ thu thuế tiêu thụ đặc biệt hang nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu hàng nhập khẩu. Nhưng đối với hàng xuất khẩu, lại thuộc về cơ quan thuế, làm các thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng xuất khẩu, hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng xuất khẩu rồi nhưng không đảm bảo hoặc những phần đó do cơ quan thuế chịu trách nhiệm. Vì vậy đề nghị tách ra làm hai phần khai thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu và khai thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, bổ sung một dòng nữa để phản ánh được tính đặc thù của những hoạt động này, sau đó hướng dẫn thì rất cụ thể của hai tổ chức, hai cơ quan khác nhau.

-          Về khai thuế giá trị gia tăng: có hai phương pháp khấu trừ và phương pháp khoán. Theo quy định của Nghị định 85, phương pháp khoán, được quy định tại Điều 18. Tuy nhiên, cần phải sửa đổi Điều này cho phù hợp với thu khoán thuế thu nhập cá nhân. Trước kia, các hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề độc lập sẽ nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ 1.1.2009, các hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề độc lập đó sẽ chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân chứ không phải là thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, thuế giá trị gia tăng vẫn nộp theo Luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp lại thay nộp thuế theo Luật thu nhập cá nhân, khai thuế thu nhập đối với 1 hộ có nhà cho thuê hoặc có cửa hàng bán thuốc phải khai một lần vừa khai thuế giá trị gia tăng, khai thuế thu nhập cá nhân hai thời điểm đó khác nhau, sẽ gây khó khăn. Riêng về thời điểm khai thuế giá trị gia tăng của đơn vị thuộc cá nhân, hộ kinh doanh cá thể mà  nộp thuế theo phương pháp trực tiếp mà cùng thực hiện thuế thu nhập cá nhân, đề nghị liên kết hai thuế này làm một, để cùng thời điểm kê khai, ví dụ, mình cho rằng khai thuế thu nhập cá nhân của hộ kinh doanh cá thể là khai theo quý mà ở đây, tờ khai của thuế giá trị gia tăng lại là khai theo tháng, ngày 20, như vậy, cùng một hộ kinh doanh cho thuê nhà phải làm 3 tờ khai vào 3 tháng về tiền thuê nhà, một quý lại làm tờ khai về thuế thu nhập cá nhân. Như vậy là khá phức tạp, đề nghị, gộp để kê khai theo quý.

-          Trong cải cách hành chính về thuế, cần phải đảm bảo thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng cũng phải đảm bảo không thất thu, tạo ra kẽ hở trong gian lận thuế. Ví dụ, hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hóa đơn, chứng từ không có thuế giá trị gia tăng, nhà nước đã tổn thất bao nhiêu người, trong quá trình đó phải làm thế nào để chặt chẽ nhưng vẫn làm cho người nộp thuế và cơ quan thuế vẫn hiểu thống nhất. Ví dụ, nộp thuế chuyển nhượng bất động sản từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hai phương pháp, 2% và 25%. Nhưng bây giờ có một điều thế này, khi đó, chứng khoán có hai phương pháp, 0,1 or 20% được lựa chọn. Khi nói về chuyển nhượng bất động sản lại không nói về sự lựa chọn, luật lại quy định rằng, nếu không tính được giá vốn và chi phí thì áp dụng phương pháp 2%, nếu tính được giá vốn và chi phí, giá chuyển nhượng thì áp dụng 20% trên thu nhập. Luật quy định rõ, giá chuyển nhượng không đúng, cơ quan thuế có quyền ấn định thuế trên cơ sở giá đất do UBND tỉnh ban hành tại thời điểm đó hoặc giá nhà, cơ sở hạ tầng theo quy định hiện hành của Bộ Xây dựng … Tuy nhiên, không có quy định trường hợp người nộp thuế không xác định đúng giá vốn, chi phí mua nhà hoặc có được quyền sử dụng bất động sản thì được quyền ấn định, có nghĩa, trong luật, nghị định, thông tư không có quy định về trường hợp cơ quan thuế có quyền ấn định giá vốn, chi phí phát sinh của hoạt động mua vào của bất động sản. Có những trường hợp, mấy năm trước họ mua đất 1 triệu nhưng bán giá 50 triệu, thì vô hình chung, nếu 25% thì phải nộp 15 triệu/m, nếu 2% thì họ sẽ chỉ phải nộp 1,2 triệu, giữa 15 tr và 1,2 triệu là rất khác nhau, nếu người nộp thuế bảo rằng không giữ được chứng từ hồ sơ thời xưa, cơ quan thuế có thể ấn định thuế không? Không được phép vì không có quy định. Tính thực thi và ko rõ ràng minh bạch sẽ gây khó khăn trong thực tế. Vì vậy, trong phần giải quyết hồ sơ hoàn thuế, cần phải quy định rõ xác định thế nào được hoàn thuế trước, thế nào được kiểm tra tiền hoàn hậu kiểm, tiền kiểm hậu hoàn. Đối với các trường hợp, kiểm tra trước hoàn thuế sau, đồng ý với nội dung với BST, bổ sung khoản 2 Điều 30, tuy nhiên, cần phải làm rõ các từ ngữ, trường hợp thuộc diện kiểm tra hồ sơ hoàn thuế tại điểm b có bổ sung như sau: “người nộp thuế đề nghị hoàn thuế lần đầu là hoàn thuế lần đầu trên toàn quốc”, Nghị định hiện hành chỉ quy định là người nộp thuế đề nghị hoàn thuế lần đầu. Thực hiện hoàn thuế lần đầu theo Nghị định 85 khi doanh nghiệp mới thành lập có hoàn thuế lần đầu tiên mới thành lập, do mới thành lập chưa có kinh nghiệm nên kiểm tra trước hoàn thuế sau là chính xác, nhưng bây giờ, là hoàn thuế lần đầu trên toàn quốc là không rõ, trên toàn quốc có nghĩa có thể có nhiều chi nhánh, công ty, nếu hoàn ở HN, nhưng ở TPHCM chưa hoàn thuế thì ý này chưa rõ, tại sao lại phải hoàn thuế trên toàn quốc? Nếu mình có một điểm hoàn thuế mà lần đầu tiên hoàn thì sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn. Nếu cho rằng, đây là việc hoàn thuế đối với những đơn vị có những chi nhánh, công ty hoạch toán trên toàn quốc đa dạng thì từ đó phải thay lại để dễ hiểu.

-          Hoàn thuế trước đối với người nộp thuế không thực hiện giao dịch thanh toán qua ngân hàng theo quy định. Đề nghị sửa, trước cho hoàn thuế qua tiền mặt là bình thường, và khấu trừ thuế qua tiền mặt là bình thường, nhưng theo Luật thuế giá trị gia tăng mới thì chỉ cho khấu trừ, hoàn thuế đối với cả doanh nghiệp sản xuất trong nước nữa chứ không phải chỉ là đối với doanh nghiệp xuất khẩu từ 20 triệu đồng trở lên phải thanh toán qua ngân hàng mới được hoàn thuế, nếu không thực hiện điều này thì không được hoàn thuế nữa. Nên sửa lại là, có một phần tỷ lệ giao dịch bằng tiền mặt không đảm bảo điều kiện được khấu trừ mới đúng. Đề nghị sửa đổi lại cho hợp lý và thống nhất với quy định mới của Luật thuế giá trị gia tăng;

-          Tại điểm 3 Điều 30, các trường hợp giải quyết hồ sơ hoàn thuế chậm do lỗi của cơ quan thuế thì ngoài số thuế được hoàn theo quy định người nộp thuế còn được trả lãi và xử lý các vi phạm này TT 49 quy định rất cụ thể. Nhưng có một điểm còn băn khoăn đó là nguồn tiền lãi được lấy từ quỹ hoàn thuế theo quy định của Bộ tài chính, đây là trường hợp giải quyết do lỗi của cơ quan thuế nên số tiền được trừ không thể lấy từ nguồn của quỹ hoàn thuế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính được mà phải lấy từ các khoản chi của cơ quan thuế, nếu cán bộ thuế gây ra phải trừ vào tiền lương hoặc các khoản khác của cán bộ, ở đây lại ghi là Quỹ hoàn thuế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đã là quỹ hoàn thuế là phải thanh quyết toán theo ngân sách.

Ông Tuyến – ĐH Luật

Từ góc độ người bình luận chính sách, tôi có hai ý kiến như sau:

-          Về triết lí quản lý thuế: trước đây chúng ta có suy nghĩ quản lý thuế là việc mà nhà nước phải làm, đối với người bị quản lý là người dân, doanh nghiệp à liệu quan niệm như vậy đã đúng chưa khi chúng ta đang hướng đến một xã hội dân sự, nhà nước cũng phải làm theo luật và người dân có quyền kiểm soát nhà nước trong quá trình thực thi luật. Xác định lại mục đích của quản lý thuế đó là bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi ích của cả người nộp thuế nữa. Xuất phát từ mục đích như vậy cần phải khẳng định triết lí quản lý thuế ở đây là: Nhà nước quản lý người nộp thuế và người nộp thuế cũng phải quản lý nhà nước, kiểm soát nhà nước trong quá trình thu thuế như thế nào? Có đúng quy định của pháp luật hay không? Có đảm bảo quyền lợi của người dân hay không? Chứ không phải Nhà nước làm gì cũng được. Như vậy, cách tiếp cận Luật Quản lý thuế cũng như Dự thảo Nghị định này để đảm bảo quyền lợi của nhà nước và người nộp thuế, làm thế nào để cả hai có thể kiểm soát lẫn nhau;

-          Hướng sửa đổi Nghị định 85, nhấn mạnh 5 vấn đề sau:

+ Giảm mạnh các công việc hiện nay cơ quan thuế đang phải thực hiện theo hướng tăng cường cơ chế hậu kiểm, chuyển quyền tự chủ cho người nộp thuế trong đăng kí, kê khai, quyết toán thuế cũng như thực hiện các quyền của người nộp thuế như khiếu nại, khiếu kiện. Hiện nay chúng ta đã làm rất tốt chuyển từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế mới như tự khai, tự tính, tự nộp, tự quyết toán với cơ quan thuế. Giảm các công việc hiện nay cơ quan thuế sẽ giảm chi phí cho cơ quan quản lý thuế.

+ Cần tăng cường vai trò của các tổ chức làm dịch vụ thuế ví dụ như đại lý thuế, đồng ý với quan điểm của bà Cúc, cần tăng cường và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ quản lý thuế, những tổ chức này sẽ góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho những người nộp thuế, giảm chi phí cho người nộp thuế  trong khi họ không có tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế tốt nhất. Hiện nay ở Việt Nam, tổ chức này mới chỉ manh nha chứ chưa được phát triển.

+ Giảm mạnh các thủ tục hành chính, cắt giảm thời gian vật chất để thực hiện các công việc quản lý thuế, thời gian ngắn nhưng hiệu suất cao.

+ Tăng cường khả năng thực thi các quy định về tố tụng thuế vì như vậy mới bảo vệ tốt nhất cho người nộp thuế, có vị thế yếu hơn trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện thuế. Hiện nay, có nhiều tòa án hành chính địa phương không dám thụ lý đơn đối với các vụ án về thuế mà nguyên đơn là người nộp thuế vì tâm lí e ngại của tòa án địa phương. Điều này phản ánh rằng chúng ta chưa sẵn sang chuyển sang giai đoạn minh bạch hóa hoạt động của cơ quan công quyền, nâng cao vai trò của người dân trong việc nộp thuế, kiểm soát nhà nước trong việc thực thi luật pháp.

+ Đẩy mạnh hoạt động tin học hóa, hiện đại hóa hoạt động quản lý thuế trong đó có việc, mọi thông tin của người nộp thuế được quản lý thống nhất, công khai, minh bạch để những bên muốn tìm hiểu thông tin có thể tìm hiểu được thông tin, mặt khác có thể quản lý được người nộp thuế.

Ông Phạm Mạnh Hùng – HH Kế toán Kiểm toán Việt Nam

Luật Quản lý thuế ra đời là một sự tiến bộ trong công tác quản lý nhà nước về thuế. Tuy nhiên Luật mới thực hiện 1 năm nhưng đã phát hiện một số hạn chế và đã chủ động sửa đổi, đây là một hướng rất tích cực, đúng đắn.

Góp ý cụ thể:

-          Quy định rõ các loại tài liệu khác là loại tài liệu gì để tránh sự phiền nhiễu của cán bộ thuế, tạo sự minh bạch trong các quy định về thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp;

-          Khoản 1a, Điều 12 quy định khai theo tháng áp dụng như sau, bỏ cụm từ trường hợp khấu trừ thuế tại nguồn khi chi trả thu nhập thường xuyên, thu nhập xổ số, thu nhập trúng thưởng, khuyến mãi thu nhập tạm khấu trừ thuế 10% thay bằng cụm từ đối với tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khấu trừ thuế cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công trực tiếp kê khai cho cơ quan thuế à khác nhau về bản chất khi thay thế như thế. Bỏ cụm từ theo khoản 1b Điều 12 cũng tương tự.

-          Cụ thể hóa các tài liệu khác có liên quan.

-          Điều 18, thủ tục về thuế và xin giấy phép là tốn nhiều thời gian. Đề nghị kê khai thuế theo quý hoặc 6 tháng, sẽ giảm rất nhiều về thời gian cho người nộp thuế, tăng quyền tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, chúng ta có chế tài để kiểm soát các doanh nghiệp trong hoạt động này, một số nước trên thế giới cũng cho kê khai thuế như thế.     

-          Điều 22, sửa nghị định có sửa thông tư không?

-          Điều 27, 39: đồng ý

-          Điều 38, sửa cụm từ “thanh tra viên” thành “đoàn thanh tra”. Cần phải xem xét, vì trong thanh tra viên và đoàn thanh tra là khác nhau, trong khi Điều 38 có nhiều điểm quy định, phục vụ cho về trách nhiệm, quyền hạn của thanh tra viên thuế. Nếu thay thì phải quy định lại cả Điều 38 cho phù hợp.

-          Đồng ý với các điểm còn lại.

Ông Triệu Quang Khánh

Có hai ý kiến:

-          Đăng ký mã số thuế: Quy định mã số thuế đồng thời là mã số đăng ký kinh doanh, đây là vấn đề kĩ thuật. Nếu thực hiện được điều này thì có thể cắt giảm được 5 ngày tiến hành thủ tục cho doanh nghiệp.

-          Thủ tục mua hóa đơn: Kiểm tra trụ sở công ty. Việc cơ quan thuế kiểm tra trụ sở công ty, nếu xét về góc độ cải cách hành chính, không mất nhiều công sức cho cán bộ thuế, một ngày đăng ký 500-600 doanh nghiệp, liệu chi cục thuế có thể kiểm tra hết và bán hóa đơn cho doanh nghiệp được hơn. Doanh nghiệp thành lập mà chưa có hóa đơn sẽ gây khó khăn nhiều cho doanh nghiệp nếu muốn đi vào hoạt động ngay. Nên việc kiểm tra trụ sở công ty là không cần thiết vì khi doanh nghiệp đăng ký trụ sở công ty thì đã phải có hồ sơ thuế nhà hoặc sổ đỏ, có hộ khẩu của người đại diện theo pháp luật của công ty, điều này đã phản ánh đủ được về trụ sở công ty.

-          Trả kết quả liên quan đến thủ tục hành chính về thuế: chưa sử dụng dịch vụ bưu điện chuyển phát à doanh nghiệp không phải đến cơ quan thuế để lấy kết quả, giảm được thời gian cơ quan thuế tiếp doanh nghiệp. Chứng cứ để cơ quan thuế biết doanh nghiệp đã nhận hay chưa chính là dấu bưu điện.

Ông Phạm Đình Thi

-          Hiện nay, Bộ Tài chính đang nghiên cứu để thống nhất mã số thuế và số đăng ký kinh doanh;

-          Về hóa đơn: Tổng Cục thuế đã được Bộ Tài chính giao cho nghiên cứu xây dựng Nghị định về hóa đơn, chứng từ đang trình Bộ Tư pháp thẩm định và trình Chính phủ kí ban hành. Hướng xây dựng sẽ là chuyển toàn bộ hóa đơn là tự in phục vụ cho chính mình, tự quảng bá thương hiệu.

-          Về trả kết quả liên quan đến thủ tục hành chính: đang triển khai trả qua bưu điện, chuyển phát nhanh. Thủ tướng Chính phủ đang yêu cầu Bộ Tài chính giảm thủ tục hành chính về ngành thuế, đến 2010, giảm thủ tục hành chính về thuế từ 1050 giờ xuống còn 600 giờ, thuế phải giảm 300 giờ, bảo hiểm y tế là 150h, đến 2011 việt nam phải đứng thứ hạng 80, ngang bằng với Thái Lan hiện nay. Đối với ngành hải quan, đến 2010 giảm thời gian kiểm tra thực tế, thông quan hàng hóa xuống ít nhất bằng 1,5 lần so với các nước tiên tiến trong khu vực, đến năm, 2011 bằng mức trung bình của 4 nước tiên tiến trong khu vực là Indonesia, Thái Lan, Malaisia và Philipines.

-          Trong quá trình thực hiện luật quản lý thuế (như khai thuế, đăng kí thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, …) vừa qua: có những vấn đề nào vướng, những vấn đề nào chưa phù hợp với thực tế; Theo chỉ đạo của Chính phủ đến 2010 phải giảm 30% về thủ tục về thuế, giảm ít nhất 110 thủ tục về thuế, cần nêu các thủ tục cần phải được cắt giảm.

Bà Dương – Vifaconsult

-          Thời điểm hiện tại, các quy định về thuế đã có nhiều hiện tại, tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù quy định thuế rất rõ ràng, nhưng khi làm việc với cán bộ thuế lại thiếu thái độ hợp tác, họ cho rằng những người nộp thuế đó là nghĩa vụ nên thái độ của họ đối xử không tốt à bổ sung quy định về ý thức, trách nhiệm của cán bộ làm thuế, quy định thêm về quyền lợi của người nộp thuế à đòn bẩy, không chỉ cán bộ thuế mà người nộp thuế ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình tốt lên.

Ví dụ: thời gian gần đây, chúng tôi có làm việc về thủ tục: thay đổi trụ sở kê khai thuế nhưng phải mất đến gần 2 tháng, bởi, khi đi làm thủ tục phải đi rất nhiều lần, cán bộ thuế cũng không nói là hồ sơ thiếu gì, cần bổ sung gì?

-          Cần nâng cao ý thức, trách nhiệm, cách nhìn nhận của mọi người giữa cán bộ thuế với người nộp thuế có sự chênh lệch nữa. Hoan nghênh công khai hóa các thủ tục thuế à tăng tính chủ động, tích cực của người nộp thuế trong việc nộp thuế.

-          Cần quy định cụ thể các giấy tờ yêu cầu trong các văn bản pháp luật tạo sự minh bạch, thuận lợi cho người nộp thuế.

Ông Phạm Đình Thi

-          Nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế đến cuối năm: đang triển khai, thực hiện thí điểm nộp hồ sơ khai thuế qua internet tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng, đến 2010 áp dụng nộp sơ khai thuế qua mạng tại các địa phương có điều kiện, như vậy nếu thực hiện thành công thì có thể 80% số thu ngân sách được kê khai qua mạng; Mở rộng triển khai dự án tập trung ngân sách nhà nước qua việc ứng dụng và kết nối thông tin giữa cơ quan thuế, hải quan, kho bạc tài chính và cuối năm 2009 triển khai trên 33 tỉnh, thành phố; triển khai nộp thuế qua ngân hàng trên các địa bàn lớn, nộp thuế qua thẻ ATM, bằng tài khoản của ngân hàng qua điện thoại di động và các hình thức nộp thuế qua ngân hàng thương mại, thực hiện thí điểm hoạt động trung tâm hỗ trợ người nộp thuế năm 2009 thực hiện trên địa bàn Hà Nội, 2010 thực hiện trên các địa bàn khác. Các vướng mắc sẽ được tự động trả lời qua điện thoại di động. Tập trung thí điểm, nâng cao sự phối hợp hiệu quả giữa Tổng cục và các Cục nhằm nâng cao quản lý hiệu quả các doanh nghiệp lớn, các nguồn thu quan trọng. Các thủ tục về thuế sẽ được đơn giản, minh bạch, thời gian làm thuế sẽ được giảm.

Ông Phạm Minh Tú – IFC

-          Phân loại đối tượng nộp thuế theo quy mô, doanh thu: đối tượng nộp thuế doanh thu nhỏ chiếm số lượng lớn, số thuế đóng lại không bao nhiêu trong khi cơ quan thuế lại bỏ rất nhiều chi phí, thời gian để quản lý đối tượng này. Mặt khác, các đối tượng này năng lực kế toán, sổ sách tương đối hạn chế trong khi đó yêu cầu về kế toán, sổ sách giữa các đối tượng lại giống nhau à đề xuất phân loại đối tượng nộp thuế để có những phương pháp quản lý hiệu quả.

-          Tần suất kê khai: khi xem xét các đối tượng có quy mô, giảm tần suất kê khai, như kê khai thuế giá trị gia tăng kê khai theo tháng xuống kê khai theo quý;

-          Về nộp thuế: đối với đối tượng kinh doanh là hộ kinh doanh, nên gộp các loại thuế để người nộp thuế nộp một lần à tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan làm thuế;

-          Các thủ tục về hoàn thuế: Hiện tại thủ tục hoàn thuế tách rời với thủ tục kê khai thuế, đề nghị, đối với những kê khai thường xuyên thì có thể gộp hai loại thủ tục này với nhau, qua đó có thể tiết kiệm được thời gian, đối với kê khai khấu trừ đối với thuế giá trị gia tăng, khi doanh nghiệp kê khai đầy đủ để khấu trừ thuế giá trị gia tăng thì có thể tick vào đề nghị hoàn thuế, cơ quan thuế thực hiện hoàn thuế luôn.

Ông Nguyễn Thanh Hải – Baker Mckenize

-          Thủ tục miễn thuế, giảm thuế đối với Hiệp định tránh đánh thuế hai lần: Theo NĐ 85 không quy định về thủ tục liên quan đến tránh đánh thuế hai lần nhưng Thông tư 60/2007 lại quy định hồ sơ, thủ tục liên quan đến miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Trước đây thông tư 133/2004 trước đây quy định riêng về thủ tục, hồ sơ cho người nộp thuế thực hiện miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định nhưng sau đó, Thông tư 60 ban hành, ngoài quy định các thủ tục chung còn quy định thêm các nội dung về miễn thuế, giảm thuế. Nhưng điểm k về điều khoản thi hành của Thông tư 60, bãi bỏ các quy định các quy định trái với quy định với Thông tư 60 à nhiều người hiểu Thông tư 133 hết hiệu lực thay thế bằng Thông tư 60. Trong thực tế, Bộ Tài chính đã có nhiều công văn hướng dẫn áp dụng hai Thông tư này. Thủ tục miễn thuế, giảm thuế đối với nhà thầu nước ngoài có thu nhập từ chuyển nhượng vốn, trong thành phần hồ sơ trong tất cả các loại thuế thu nhập chỉ có duy nhất có thu nhập từ chuyển nhượng vốn áp dụng trong Thông tư 133 cũ, còn các loại thu nhập khác đều áp dụng theo Thông tư 60, bởi vì, thu nhập từ chuyển nhượng vốn có đặc thù là không dựa trên hợp đồng. Theo Thông tư 133, người nộp thuế phải nộp thuế trước thì mới có văn bản xin miễn thuế, giảm thuế và làm thủ tục hoàn thuế. Theo cơ chế tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm theo Thông tư 60, người nộp thuế không sử dụng hồ sơ số 02 của Thông tư 133 thay vào đó là Thông báo miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định, có nghĩa là, trước khi kí hợp đồng 15 ngày, người nộp thuế có trách nhiệm thông báo việc miễn thuế, giảm thuế của mình. Nghị định 85 không quy định, Thông tư 60 có hướng dẫn chi tiết à đưa nội dung của miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định vào Nghị định 85; Thống nhất các loại thủ tục; có quy định về việc Thông tư 133 chấm dứt hiệu lực vì hiện tại còn thủ tục miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định còn áp dụng Thông tư 133 về mẫu hồ sơ.

Ông Hạch – HH sản xuất kinh doanh vàng

-          Nghị định 85 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nộp thuế.

-          Trước đây người nộp thuế đã phải thực hiện rất nhiều thủ tục, rất nhiều “cửa” rất mất thời gian. Thông tư hướng dẫn phải hướng dẫn cụ thể, minh bạch hóa mọi thủ tục để người nộp thuế nhận biết, thuận lợi trong thực hiện. Thực tế, có trường hợp mua hóa đơn nhưng phải đi lại đến hơn 5 lần mới mua được.

-          Trước đây thuế nhập khẩu, truy thu thuế giá trị gia tăng đầu vào làm cho giá trị sản phẩm hàng hóa đội lên à doanh nghiệp nâng giá sản phẩm à tình trạng nhập lậu tăng, ngân sách thất thu. Bây giờ, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ hoặc thu đầu ra.

Ông Triệu Quang Khánh

Bổ sung ý kiến về kê khai thuế: Trong các văn bản có quy định khuyến khích về dịch vụ kê khai thuế, tuy nhiên chưa quy định rõ ràng về việc thành lập doanh nghiệp dịch vụ kê khai thuế (thủ tục, hồ sơ …). Đây là một dịch vụ kinh doanh có điều kiện. Các văn bản chưa có quy định về vấn đề này. Ở các nước phát triển, dịch vụ kê khai thuế rất phát triển. Ở nước ta, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này rất yếu kém. Hiện nay, các doanh nghiệp không có thời gian để tự mình thực hiện kê khai thuế nên sẽ sử dụng dịch vụ kê khai thuế.

Bà Nguyễn Thị Cúc

-          Luật Quản lý thuế, Điều 20

-          Thông tư 28/2008 hướng dẫn tất cả các điều kiện để thành lập doanh nghiệp thực hiện dịch vụ thuế. Điều kiện: người dự thi phải tốt nghiệp ngành kinh tế, kế toán, luật … có làm trong lĩnh vực đó trong vòng 2 năm à sẽ được thi để cấp chứng nhận.

-          Bộ Tài chính cho phép 7 đơn vị được phép đào tạo những người làm đại lý thuế. Hội Tư vấn thuế là một trong 7 đơn vị đó. Trong thời gian qua, Hội tư vấn thuế đã đào tạo được hơn 1000 người chuẩn bị tham gia kì thi cấp chứng chỉ.

-          Những người làm kế toán trong các doanh nghiệp, có bằng tốt nghiệp đại học trong các ngành kế toán, tài chính … phải chuyên ngành kế toán, kiểm toán làm việc 5 năm trở lên sẽ được miễn thi miễn thuế. Còn làm thuế, dạy thuế cũng được 5 năm trở lên cũng được miễn thi. Hiện nay khoảng gần 2000 người nộp hồ sơ để thi à những người đỗ sẽ được đăng trên trang web của Tổng Cục thuế. Mỗi công ty phải có ít nhất hai người có chứng chỉ mới được thành lập.

Bà Thùy Dương

Cán bộ thuế nhiều trường hợp không làm tròn trách nhiệm khi hướng dẫn người nộp thuế kê khai à nên có quy định trong văn bản pháp luật về việc đối với các thủ tục thuế, thời hạn giải quyết tối đa, sau thời gian tối đa đó mà cán bộ thuế không giải quyết thì hồ sơ đó được chấp nhận à Bộ Tài chính, Tổng Cục thuế nên có hệ thống đánh giá chất lượng nội bộ trong công việc của cán bộ và có chế độ khen thưởng với cán bộ làm thuế.

Ông Phạm Đình Thi – Tổng kết

-          Những ý kiến tại hội thảo giúp Ban soạn thảo hoàn thiện Dự thảo trình các cấp có thẩm quyền. Một số ý kiến tham gia rất cụ thể như của Bà Cúc, ông Hùng, ông KHánh, ông Hải vào từng điều khoản. Một số ý kiến tham gia đóng góp với tính định hướng, giải pháp và thực tế thời gian qua như tiến sĩ Tuyến, bà Dương, ông Tú, đại diện Hiệp hội Kinh doanh vàng VN. Trong khoảng thời gian ngắn, với 10 ý kiến tham gia, rất thiết thực góp phần vào việc cải cách hành chính về thuế. Vừa qua Chính phủ giao cho Bộ Tài chính rà soát và chuẩn bị về thủ tục trong các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, xây dựng mô hình quy trình thu nộp thuế dựa trên cơ sở chuẩn mực quốc tế, khu vực à Bộ Tài chính phải chủ động  rà soát các văn bản pháp luật có liên quan để ban hành theo thẩm quyền, kiến nghị các bộ, ngành, cơ quan ban hành, đối với những quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, TTg thì phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền bổ sung để đưa vào chương trình ban hành.

-          Quy trình phân loại nộp thuế theo mức độ rủi ro và có cơ chế quản lý riêng phù hợp với từng nhóm đối tượng lớn, vừa, nhỏ, ngành đặc thù nộp thuế à tập trung thanh kiểm tra những đối tượng có nhiều khả năng gây thất thu về thuế, không làm phiền đối tượng nộp thuế đúng, đủ.

-          Đối với ngành Hải quan, tổ chức thực hiện nghiêm túc Quyết định 103 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử và việc thực hiện thí điểm nộp hồ sơ thuế qua mạng đồng thời thực hiện nộp thuế qua tài khoản ngân hàng, kết nối thông tin các cơ quan tài chính tăng cường quản lý rủi ro trong thực tế kiểm tra hàng hóa nhằm giảm thời gian thông quan, tăng hiệu quả công tác quản lý. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án hiện đại hóa quản lý thuế, hải quan và quản lý sử dụng tốt các thiết bị hiện có.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các văn bản liên quan