Nhóm Công tác Ngân hàng – Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam góp ý

Thứ Hai 14:31 29-06-2009

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO DỰ THẢO LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Người trình bày:

Nhóm Công tác Ngân hàng

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam

STT

Điều khoản

Dự thảo

Góp ý

1.       

Điều 2

Khoản 4

Luật này áp dụng đối với các đối tượng sau:

(...)

Tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức, quản lý, hoạt động của các tổ chức tín dụng; việc mở, tổ chức, quản lý, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài và các tổ chức nước ngoài khác hoạt động trên lĩnh vực ngân hàng.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước bổ sung “việc mở, tổ chức, quản lý và hoạt động ở nước ngoài của tổ chức tín dụng Việt Nam.”

2.       

Điều 3

Khoản 4

Các bên tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thoả thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế gồm:

a) Các tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại quốc tế phát hành;

b) Các tập quán thương mại quốc tế khác không trái với pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước bổ sung các tập quán do Hiệp Hội Hoán Đổi và Phái Sinh Quốc tế (ISDA) phát hành

3.       

Điều 4

2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét bổ sung loại hình ngân hàng đầu tư

9. Vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

 

Định nghĩa vốn tự có theo Dự thảo bị hẹp hơn rất nhiều so với định nghĩa về vốn tự có đang được áp dụng, ví dụ như theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và vì vậy sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng hoạt động kinh doanh của các Tổ chức tín dụng. Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên định nghĩa vốn tự có theo các quy định hiện hành.

10. Giấy phép bao gồm Giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, Giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Giấy phép mở văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác hoạt động trên lĩnh vực ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước cấp.

Định nghĩa của giấy phép theo Dự thảo rất hạn chế. Chúng tôi đề nghị sửa phần định nghĩa này như sau: “Giấy phép bao gồm tất cả Giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp, các văn bản của các Vụ có liên quan của Ngân hàng Nhà nước, cho phép tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp vụ hay hoạt động nào đó.”

11.  Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng  thường xuyên một trong các nghiệp vụ sau đây dưới mọi hình thức:

a) Nhận tiền gửi;

b) Cấp tín dụng;

c) Cung ứng dịch vụ thanh toán.

Định nghĩa hoạt động ngân hàng trong dự thảo rất hạn chế nếu so với định nghĩa về hoạt động ngân hàng trong Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét bổ sung định nghĩa hoạt động ngân hàng bao gồm cả hoạt động kinh doanh ngoại hối và môi giới tiền tệ vì lẽ những lĩnh vực này cũng là một trong những hoạt động xương sống của ngành ngân hàng và có liên quan mật thiết đến sự an toàn của cả hệ thống nên cần được giám sát và quản lý chặt chẽ;

 

12. Nhận tiền gửi là việc tổ chức tín dụng nhận tiền của cá nhân, tổ chức dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc cho người gửi tiền.

 

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ sự khác biệt của “tiền gửi có kỳ hạn” và “tiền gửi tiết kiệm”.

29. Thành viên độc lập của Hội đồng quản trị là thành viên Hội đồng quản trị đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật này.

Thành viên độc lập của Hội đồng quản trị: Vậy trong trường hợp chỉ có Hội đồng thành viên thì có yêu cầu phải có thành viên độc lập hay không?

 

31. Công ty liên kết của tổ chức tín dụng là công ty trong đó tổ chức tín dụng, người có liên quan của tổ chức tín dụng sở hữu từ trên 11% vốn điều lệ trở lên hoặc từ trên 11% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên, nhưng không phải là công ty con của tổ chức tín dụng đó.

32. Công ty con của tổ chức tín dụng là công ty trong đó:

a) Tổ chức tín dụng và người có liên quan của Tổ chức tín dụng sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc trên 50% vốn cổ phần có quyền biểu quyết; hoặc 

b) Tổ chức tín dụng có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) của công ty con; hoặc

c) Tổ chức tín dụng có quyền sửa đổi, bổ sung điều lệ của công ty con; hoặc

d) Tổ chức tín dụng và người có liên quan của tổ chức tín dụng trực tiếp hay gián tiếp kiểm soát việc thông qua các nội dung của nghị quyết, quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng Quản trị, Hội đồng Thành viên của công ty con.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét ban hành cơ chế kiểm soát các giao dịch liên quan đến công ty con và công ty liên kết, vì lẽ những giao dịch liên quan đến các công ty này (như chuyển giao giá cả, chuyển giao nợ) thường tiểm ẩn các rủi ro và có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài sản cũng như bảng cân đối của các ngân hàng.

Liên quan đến cơ chế này, Mục 23A về Quan hệ với các công ty liên kết trong Đạo luật Dự trữ Liên bang của Mỹ (Federal Reserve Act 1982) có thể được sử dụng như một tham khảo hữu ích. Nguyên văn của Mục này có thể được tìm thấy tại trang thông tin điện tử chính thức của Hội đồng Thống đốc Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ theo địa chỉ website dưới đây:

http://www.federalreserve.gov/aboutthefed/section23a.htm

 

Điều 4

 

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước bổ sung định nghĩa của một số thuật ngữ sau:

-         Ngày làm việc;

-         Bất khả kháng;

-         Tài sản tài chính;

-         Dịch vụ hỗ trợ thanh toán;

-         Ngân hàng đầu tư;

-         Điểm giao dịch;

-         Kinh doanh vàng

Vì lẽ những thuật ngữ này được sử dụng nhiều lần trong Dự thảo nên cần được làm sáng tỏ

 

4.       

Điều 10

Khoản 5

 

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép ngừng giao dịch quá một ngày làm việc nếu không được Ngân hàng Nhà nước cho phép, trừ trường hợp bất khả kháng.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước định nghĩa cụ thể hơn về “trường hợp bất khả kháng.”

5.       

Điều 12

Khoản 2

Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng phải cư trú tại Việt Nam, trường hợp vắng mặt ở Việt Nam quá 15 ngày liên tục thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác là người quản lý của tổ chức tín dụng đang cư trú tại Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.

 

Việc để giới hạn thời gian để người đại diện ủy quyền cho người khác thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình khi vắng mặt quá 15 ngày là không phù hợp. Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước thay bằng:

“Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng phải cư trú tại Việt Nam, có quyền ủy quyền cho người khác đang cư trú tại Việt Nam của tổ chức tín dụng để thực hiện một phần hoặc toàn bộ  nhiệm vụ và quyền hạn của mình khi vắng mặt.”

6.       

Điều 13

Khoản 3

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được trao đổi thông tin với nhau về hoạt động của tổ chức tín dụng.

 

Đề nghị Điều khoản này được sửa thành

“Các tổ chức tín dụng được trao đổi thông tin với nhau phục vụ cho một hoặc một số nghiệp vụ hợp pháp trong hoạt động ngân hàng và về khách hàng.”

 

7.       

Điều 14

Bảo mật thông tin

1. Nhân viên, người quản lý, người điều hành các cấp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiết lộ bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng,chi nhánh ngân hàng nước ngoài .

3. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyền từ chối yêu cầu của tổ chức, cá nhân về việc cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng và thông tin về hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.

 

Chúng tôi kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước có thêm điều khoản trong đó nêu rõ thông tin khách hàng sẽ được tách khỏi tài liệu, vật mang bí mật Nhà nước, và có thể được chia sẻ theo Điều 5 về cung cấp thông tin tại Nghị định 70/2000/NĐ-CP.

 

8.       

Điều 16

Khoản 1

Nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Tổng số cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tại một tổ chức tín dụng cổ phần không được vượt quá 30% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.

 

Theo chúng tôi, nếu để con số xác định “30%” như Dự thảo có thể gây cản trở khi thị trường thay đổi dẫn đến chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước thay đổi, vì vậy, Điều khoản này nên sửa thành:

“Tổng số cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tại một tổ chức tín dụng cổ phần được Ngân hàng Nhà nước quy định theo từng thời kỳ.”

9.       

Điều 18

Khoản 2

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước có hướng dẫn cụ thể hơn đối với thời điểm xác định vốn tự có để tránh tình trạng có các cách hiểu khác nhau về thời điểm này. Nhóm Công tác Ngân hàng xin đề nghị xác định vốn tự có dựa vào các báo cáo giữa niên độ và cuối niên độ của ngân hàng thương mại.

10.   

Điều 19

Khoản 1 (e)

Có phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng.

 

Đề nghị sửa thành “Có phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng và tuân thủ các quy định của pháp luật về cạnh tranh.”

11.   

Điều 21 (1)

Trong thời hạn 360 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

 

Thời hạn này là quá dài đối với một số loại hình giấy phép. Chúng tôi đề nghị tách thời hạn này là 30 ngày đối với giấy phép con, và 180 ngày đối với giấy phép thành lập và hoạt động.

12.   

Điều 22

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp Giấy phép phải nộp một khoản lệ phí cấp Giấy phép bằng 1% vốn điều lệ hoặc vốn được cấp.

Khoản lệ phí này là quá cao và phải có giới hạn mức phí tối đa là 10.000 USD.

Chúng tôi kính đề nghị sửa đổi điều này như sau:

“Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp Giấy phép phải nộp một khoản lệ phí cấp Giấy phép do Bộ Tài chính quy định tùy từng thời điểm nhưng không được vượt quá mười nghìn (10.000) đô la Mỹ.”

13.   

Điều 24

Khoản 3

Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy phép, tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép không tiến hành khai trương hoạt động, thì Giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp không còn giá trị

 

Đề nghị bổ sung: “trừ trường hợp đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép gia hạn bằng văn bản.”

14.   

Điều 26

Khoản 1 (c)

Ngân hàng Nhà nước có quyền thu hồi Giấy phép đã cấp trong các trường hợp sau:

(...)

Tổ chức được cấp Giấy phép hoạt động không đúng nội dung được quy định trong Giấy phép

 

Đề nghị bổ sung “trừ trường hợp đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép bằng văn bản.”

15.   

Điều 28

Cơ cấu tổ chức mạng lưới

1. Tùy theo loại hình hoạt động, tổ chức tín dụng được mở chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, thành lập đơn vị sự nghiệp ở trong nước, kể cả tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở chính; mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

2. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể về điều kiện, hồ sơ và thủ tục mở, chấm dứt hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện; thành lập, giải thể đơn vị sự nghiệp của từng loại hình tổ chức tín dụng.

 

Điều khoản này không quy định đối với loại hình như điểm giao dịch, hệ thống ATM … Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước bổ sung các loại hình như điểm giao dịch, hệ thống ATM, vốn là một phần không tách rời của mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại.

16.   

Điều 32

Những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ

1. Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng:

(...)

b) Không được đồng thời là người quản lý của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con của tổ chức tín dụng;

c) Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng không được đồng thời là người điều hành của tổ chức tín dụng đó; không được đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, người điều hành tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con của tổ chức tín dụng.

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước thêm các công ty liên kết vào điều khoản này như sau:

b) Không được đồng thời là người quản lý của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng;

c)  Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng không được đồng thời là người điều hành của tổ chức tín dụng đó; không được đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, người điều hành tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng.

3. Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) không được đồng thời là:

a) Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp đó là công ty con của tổ chức tín dụng;

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước thêm các công ty liên kết vào điều khoản này như sau:

Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp đó là công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng.

17.   

Điều 35

Khoản 2

Ngân hàng Nhà nước có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch, các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Trưởng Ban, các thành viên Ban Kiểm soát, Người điều hành tổ chức tín dụng vi phạm quy định tại Điều 31 Luật này, Điều lệ tổ chức tín dụng, vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và yêu cầu các cơ quan có liên quan của tổ chức tín dụng miễn nhiệm, bầu, bổ nhiệm người thay thế, hoặc chỉ định người thay thế nếu xét thấy cần thiết.

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ hơn cụm từ “vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao” như hình thức vi phạm, tính chất vi phạm, v.v…

18.   

Điều 37

1. Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng phải công khai với tổ chức tín dụng, các thông tin sau:

a) Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mà họ, những người có liên quan trực tiếp đứng tên sở hữu phần vốn góp, cổ phần hoặc uỷ quyền, uỷ thác cho cá nhân, tổ chức khác đứng tên từ 5% vốn điều lệ trở lên, cụ thể: Tên, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh, số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký kinh doanh;

b) Doanh nghiệp mà họ, những người có liên quan đang là thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) gồm: tên, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh, số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký kinh doanh;

2. Việc công khai các lợi ích theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều này và việc thay đổi các lợi ích liên quan này phải được thực hiện bằng văn bản trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày phát sinh lợi ích hoặc từ ngày có thay đổi;

3. Việc công khai theo quy định tại khoản 1 Điều này phải được thông báo định kỳ hằng năm cho Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng và được niêm yết, lưu giữ tại trụ sở chính của tổ chức tín dụng.

 

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước quy định hậu quả của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm công khai các lợi ích liên quan theo quy định tại Điều này.

19.   

Điều 36

Khoản 7

Không được tăng lương, thù lao hoặc yêu cầu trả thưởng khi tổ chức tín dụng bị lỗ.

 

Vấn đề này nên được quyết định bởi tổ chức tín dụng theo các quy định trong Điều lệ vì bản thân Điều lệ của các Tổ chức tín dụng đã có các điều khoản quy định về chế độ lương, thưởng đối với ban quản lý, điều hành.

20.   

Điều 38

Khoản 2

 

Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thiết lập phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu đã đặt ra.

 

Chúng tôi đề nghị bỏ cụm từ “chi nhánh ngân hàng nước ngoài” tại điều khoản này và thay bằng quy định sau: “Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ áp dụng theo qui định tại Điều 87 khoản 1 tại Mục 8.”

 

21.   

Điều 39

1. Tổ chức tín dụng phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên trách thuộc Ban kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng.

 

Nếu muốn đảm bảo tính độc lập trong việc đánh giá định kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ của bộ phận kiểm toán nội bộ, bộ phận này phải được báo cáo trực tiếp lên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của Tổ chức tín dụng.

22.   

Điều 42 và Điều 43

Điều 42. Ban kiểm soát và cơ cấu Ban kiểm soát

1. Ban kiểm soát là cơ quan có trách nhiệm kiểm soát, đánh giá việc chấp hành các quy định nội bộ, các quy định của Nhà nước, Điều lệ và việc thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên; thực hiện việc kiểm toán nội bộ các hoạt động kinh doanh và các báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng.

            (...)

            3. Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc, bộ phận kiểm toán nội bộ, được sử dụng  các nguồn lực của tổ chức tín dụng, được thuê các chuyên gia và tổ chức bên ngoài để thực hiện các nhiệm vụ của mình.

          (...)

Điều 43. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát

1. Giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật và Điều lệ của tổ chức tín dụng trong việc quản trị, điều hành tổ chức tín dụng; chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên, thành viên góp vốn  trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

(...)

3. Chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến bộ phận kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Có quyền sử dụng tư vấn độc lập và quyền được tiếp cận, cung cấp đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành tổ chức tín dụng để thực hiện nhiệm vụ được giao. 

(...)

 

Kinh nghiệm của các thị trường phát triển cho thấy rằng, hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ nên là một phần không tách rời của hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng. Mặc dù tính độc lập của bộ phận này luôn được nhấn mạnh, nhưng vì hệ thống này hỗ trợ chặt chẽ với hoạt động thường ngày của tổ chức tín dụng, như cung cấp tư vấn, khuyến nghị, phê chuẩn, v.v…, tính độc lập của Ban kiểm soát chỉ là tương đối, vì vậy, trong tổ chức và hoạt động của các ngân hàng ở các thị trường phát triển, bộ phận này vẫn báo cáo cho Ban quản trị để đảm bảo sự vận hành thông suốt của ngân hàng. Việc đánh giá hoạt động của hệ thống kiểm soát nên được thực hiện bởi một bộ phận độc lập, không liên quan đến hoạt động hàng ngày của ngân hàng, là bộ phận Kiểm toán nội bộ, để đảm bảo tính độc lập và trung thực của báo cáo. Chính vì vậy, bộ phận Kiểm toán không thể và không nên nằm trong Ban Kiểm soát, mà nên báo cáo trực tiếp cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên. Vì lý do này, chúng tôi khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét và cân nhắc về sự tồn tại và vai trò của Ban Kiểm soát.

23.   

Điều 46

Khoản 2

Nhiệm kỳ của Tổng giám đốc (Giám đốc) không quá 05 năm. Tổng giám đốc (Giám đốc) có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.

 

Chúng tôi kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước sửa đổi Điều khoản này như sau:

“Nhiệm kỳ của Tổng Giám đốc (Giám đốc) được quy định theo Điều lệ của Tổ chức tín dụng nhưng mỗi nhiệm kỳ không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.”

24.   

Điều 48 (2) (b)

Không phải là người hưởng lương, thù lao thường xuyên của tổ chức tín dụng ngoài những khoản phụ cấp được hưởng theo quy định;

 

Đề nghị điều khoản này được sửa thành

“Không phải là người hưởng lương, thù lao thường xuyên của tổ chức tín dụng ngoài những khoản phụ cấp được hưởng theo quy định tại Điều lệ.”

25.   

Điều 49

Khoản 1

Danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước khi bầu, bổ nhiệm các chức danh này. Những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng phải thuộc danh sách đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

Trong trường hợp từ chối danh sách, kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước có văn bản nêu rõ lý do từ chối và chỉ từ chối nếu có lý do chính đáng

26.   

Điều 57

Đại hội đồng cổ đông

 

Chúng tôi lưu ý rằng cả Điều 29 và Điều 57 của Dự thảo đều không đề cập đến tỷ lệ tối thiểu cần thiết để thông qua các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông

27.   

Điều 61

Khoản 7

Hội đồng Quản trị của tổ chức tín dụng là công ty cổ phần được quyền:

”Quyết định các khoản cho vay, bảo lãnh có giá trị lớn hơn 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trên cơ sở đảm bảo các quy định về an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.”

 

Theo quy định của Điều 128 khoản 1, tổ chức tín dụng không được phép cho một khách hàng vay quá 15% vốn tự có, vì vậy quy định tại Điều 61 khoản 7 hoàn toàn không phù hợp với tinh thần của Điều 128.

28.   

Điều 64 và

Điều 70

Điều 64. Hội đồng thành viên

.....

3. Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên gồm tất cả người đại diện theo uỷ quyền của chủ sở hữu.

4. Chủ sở hữu tổ chức tín dụng bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Điều 70. Hội đồng thành viên

1. Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có các nhiệm vụ quyền hạn sau:

a) Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của tổ chức tín dụng;

b) Quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và phương thức huy động thêm vốn;

…..

 

Theo Luật các Tổ chức tín dụng, Nghị định 22/2006/NĐ-CP và Thông tư 03/2007/TT-NHNN, cơ quan cao nhất của ngân hàng thương mại (bao gồm ngân hàng 100% vốn nước ngoài) là “Hội đồng quản trị”. Vì vậy, chúng tôi kính đề nghị Dự thảo cũng dùng cụm từ “Hội đồng quản trị” thay cho “Hội đồng thành viên” để tránh gánh nặng về mặt thủ tục hành chính khi các ngân hàng phải sửa đổi điều lệ của mình.

 

 

29.   

Điều 65

Khoản 2 (i)

 

 

Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được quyền:

Quyết định các khoản cho vay, bảo lãnh có giá trị lớn hơn 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng trên cơ sở đảm bảo các quy định về an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.”

 

Chúng tôi cho rằng thẩm quyền quyết định các khoản cho vay, bảo lãnh của Hội đồng thành viên nên được để tổ chức tín dụng quy định tại Điều lệ và trên cơ sở tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước về hạn chế tín dụng.

30.   

Điều 70

Khoản 1

Điều 70 khoản 1:

Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được quyền:

Quyết định các khoản cho vay, bảo lãnh có giá trị lớn hơn 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trên cơ sở đảm bảo các quy định về an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.”

 

Theo quy định của Điều 128 khoản 1, tổ chức tín dụng không được phép cho một khách hàng vay quá 15% vốn tự có, vì vậy quy định tại Điều 70 khoản 1 hoàn toàn không phù hợp với tinh thần của Điều 128.

31.   

Điều 87 Khoản 4

 

Tổng giám đốc (Giám đốc) của chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật này, do cấp có thẩm quyền của ngân hàng nước ngoài bổ nhiệm, miễn nhiệm và phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. 

 

Theo chúng tôi, dẫn chiếu đến khoản 4 mới phù hợp.

 

32.   

Điều 87

Khoản 5

Trường hợp ngân hàng nước ngoài có hai hoặc nhiều chi nhánh hoạt động tại Việt Nam và thực hiện tài chính, hạch toán, báo cáo tổng hợp, ngân hàng nước ngoài phải uỷ quyền một Tổng giám đốc (Giám đốc) chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. 

 

Đề nghị Ngân hàng nhà nước chỉ yêu cầu chuẩn y đối với Tổng giám đốc, không cần chuẩn y đối với các Giám đốc chi nhánh, trên cơ sở các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đảm bảo và tự chịu trách nhiệm tuân thủ các quy định của Luật về tiêu chí và điều kiện của Giám đốc chi nhánh.

33.   

Điều 88

Khoản 2

 

Tổ chức tín dụng không được phép tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác quy định trong Giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng.

 

Theo chúng tôi, điều khoản này sẽ hạn chế phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài như đã được quy định trong Thông tư 03/2007/TT-NHNN ngày 28/02/2007 (Thông tư 03). Theo Điều 37 và 61 của Thông tư 03, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thực hiện các hoạt động ngoài phạm vi các hoạt động ghi trong Giấy phép nếu:

a) Được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản; hoặc

b) Đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thực hiện các nghiệp vụ này, đồng thời trong đó quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đối tượng áp dụng và được thực hiện các nghiệp vụ đó.

Vì vậy, chúng tôi đề nghị khoản 2, Điều 88 của Dự thảo được sửa đổi để phù hợp với quy định của Thông tư 03.

Chúng tôi đề nghị điều khoản này được sửa đổi như sau:

"Các tổ chức tín dụng được phép tiến hành các hoạt động được quy định trong giấy phép do NHNN cấp và bất kỳ hoạt động nào khác được NHNN chấp thuận bằng văn bản và/hoặc được cho phép thực hiện theo các quy định pháp luật do NHNN ban hành.”

 

34.   

Điều 89

Khoản 3

Trong trường hợp cần thiết, để đảm bảo an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.

 

Thế nào là để “đảm bảo an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng”? Theo các ngân hàng chúng tôi, quy định này có thể hiểu là để phù hợp với các chính sách vĩ mô từng thời kỳ.

35.   

Điều 91 (i)

Chính sách và thủ tục phù hợp, bao gồm cả nguyên tắc “nhận biết khách hàng” để đảm bảo các chuẩn mực về đạo đức và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, ngăn ngừa việc tổ chức tín dụng bị lạm dụng cho các mục đích tội phạm.

 

Chúng tôi đề nghị bỏ cụm “đảm bảo các chuẩn mực về đạo đức và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính” mà thay bằng “tuân theo các chính sách và thủ tục về phòng chống rửa tiền và tội phạm”.

36.   

Điều 92

Khoản 1

Tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình, của người bảo đảm  trước khi quyết định cấp tín dụng.

Đề nghị Điều khoản này được sửa thành

“Tổ chức tín dụng xét duyệt cấp tín dụng theo quy trình nội bộ về cấp tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro.”

 

Điều 92

Khoản 3

Tổ chức tín dụng có quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng.

 

Đề nghị sửa khoản này như sau:

“Tổ chức tín dụng có quyền và trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng.”

37.   

Điều 94

Khoản 1 (a)

Tổ chức tín dụng phải lưu giữ hồ sơ tín dụng, bao gồm :

Hợp đồng cấp tín dụng và tài liệu ghi rõ mục đích sử dụng vốn, căn cứ pháp lý về tài sản bảo đảm;

 

Đề nghị bỏ phần “mục đích sử dụng vốn”.

Điều 94

Khoản 1 (c)

Quyết định cấp tín dụng có chữ ký của người có thẩm quyền; trong trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua;

 

Theo chúng tôi, điều khoản này chỉ cần quy định: “Quyết định cấp tín dụng có phê duyệt của người có thẩm quyền” là đủ.

Điều 94

Khoản 2

Thời hạn lưu trữ hồ sơ tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật.

 

Thời hạn lưu trữ hồ sơ tín dụng cần phải cụ thể hơn để giảm thiểu chi phí cho tổ chức tín dụng, có thể quy định như sau:

“Hồ sơ tín dụng phải được lưu trữ trong thời hạn của khoản vay và tối thiểu 05 năm sau khi ngày thanh toán cuối cùng của khoản vay được thực hiện.”

38.   

Điều 96

Khoản 1

Nhận tiền gửi dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.

Chúng tôi đề nghị Ngân hàng Nhà nước có hướng dẫn hoặc định nghĩa cụ thể hơn về tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm để phân biệt hai loại tiền gửi này.

Điều 96

Khoản 2

Phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn trong nước và phát hành trái phiếu ở nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

 

Điều khoản này nên được sửa thành

“Phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn trong nước và phát hành trái phiếu ở nước ngoài theo quy định Ngân hàng Nhà nước tùy từng thời kỳ.”

Để đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước quyền chủ động quyết định khi nào cần phê chuẩn trên cơ sở diễn biến của thị trường.

Điều 96

Khoản 4 (d)

Thanh toán bừ trừ tài sản tài chính bao gồm các công cụ chuyển nhượng, công cụ phái sinh tài chính và các giấy tờ có giá khác;

 

Chúng tôi đề nghị nên đưa thuật ngữ tiếng Anh vào bên cạnh thuật ngữ được sử dụng trong tiếng Việt, cụ thể là offset và netting.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề nghị bổ sung các giao dịch ngoại hối trong phần này.

39.   

Điều 100

Khoản 3

Ngân hàng thương mại được  tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

 

“Các hệ thống thanh toán quốc tế” này có bao gồm SWIFT, Visa, Mastercard, AMEX hay không?

40.   

Điều 101 Khoản 6

 

Ngân hàng thương mại không được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ hoặc nắm giữ cổ phiếu của tổ chức tín dụng khác theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn có nguy cơ đổ vỡ. Trong trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ, ngân hàng thương mại phải bán số cổ phiếu này trong vòng 06 tháng kể từ ngày xử lý tài sản bảo đảm là cổ phiếu.

 

Điều khoản này sẽ vi phạm quyền mua cổ phiếu của ngân hàng thương mại với tư cách là một doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bỏ điều khoản này.

Điều khoản này cũng mâu thuẫn với Điều 53 khoản 3.

Chúng tôi đề nghị thời hạn nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ là 12 tháng. Nếu ngân hàng thương mại muốn nắm giữ số cổ phiếu đó quá thời hạn quy định để xin trở thành cổ đông thì phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

41.   

Điều 103

Khoản 3

Các giấy tờ có giá có thể chuyển nhượng khác.

 

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ hơn định nghĩa của “Các giấy tờ có giá có thể chuyển nhượng khác.”

42.   

Điều 104

Ngân hàng thương mại được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, giao đại lý, đại lý trong một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

 

Các ngân hàng bán lẻ có thể có đội ngũ bán hàng trực tiếp (direct sale), tức là các nhân viên bán hàng trực tiếp cho các sản phẩm của ngân hàng được cung cấp bởi một công ty hay tổ chức không phải ngân hàng. Hình thức này có bao gồm trong điều khoản này hay không?

43.   

Điều 106

Hoạt động ngân hàng đầu tư

1. Ngân hàng thương mại được trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư sau đây:

a) Tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua bán, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán;

b) Lưu ký chứng khoán;

c) Mua bán trái phiếu Chính phủ.

2. Ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư sau đây qua công ty con, công ty liên kết:

a) Bảo lãnh phát hành chứng khoán;

b) Tự doanh chứng khoán, bao gồm cả mua bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp;

c) Môi giới chứng khoán;

d) Quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán;

e) Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.

·    Chúng tôi đề nghị bổ sung thêm định nghĩa cho “hoạt động ngân hàng đầu tư” nhằm phân biệt với các hoạt động của ngân hàng thương mại.

·    Chứng khoán tại điều khoản này được hiểu là bao gồm cả cổ phiếu, trái phiếu…, Dự thảo sẽ hạn chế các ngân hàng bảo lãnh hoặc mua bán trái phiếu doanh nghiệp, trong khi hiện nay các ngân hàng đã được phép tiến hành những hoạt động trên.

·   Chúng tôi đề nghị Điều khoản này được sửa đổi như sau:

“ Ngân hàng thương mại được trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư sau đây:

a) Tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua bán, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán;

b) Lưu ký chứng khoán;

c) Mua bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.

d) Bảo lãnh phát hành chứng khoán.

2. Ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư sau đây qua công ty con, công ty liên kết:

a) Tự doanh chứng khoán, bao gồm cả mua bán cổ phiếu;

b Môi giới chứng khoán;

c) Quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán;

d) Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.

44.   

Điều 126 Khoản 7

 

Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước bỏ điều khoản này và có các quy định và hạn chế áp dụng đối với cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán theo từng trường hợp cụ thể. 

Chúng tôi đề nghị Điều khoản này được sửa đổi như sau:

“Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.”

45.   

Điều 128 Khoản 1

 

Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng;

Theo quy định hiện hành, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được duy trì tổng mức dư nợ tín dụng với một khách hàng cũng như là với người liên quan của khách hàng dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng nước ngoài ở chính quốc.

Chúng tôi thấy thay đổi này trong Dự thảo không phù hợp vì những lý do sau:

a)      Mục 2.1 của Bản thuyết minh chi tiết dự thảo sửa đổi (Bản Thuyết minh) có nêu rõ tinh thần và mục đích của việc sửa đổi Luật các Tổ chức Tín dụng là “bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Hình thành môi trường pháp luật về tiền tệ, tín dụng minh bạch và công khai. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng.” và “xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng.” 

Tuy nhiên, với nội dung của Điều 128 khoản 1 trong Dự thảo thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam buộc phải thay cơ bản hoạt động tín dụng hiện nay. Trong trường hợp chi nhánh chúng tôi, việc bắt buộc giảm mức cho vay bằng cách thu hồi nợ trước hạn hoặc chuyển khoản vay hiện có cho chi nhánh tại quốc gia khác. Điều đó cho thấy chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ bị phân biệt đối xử so với các tổ chức tín dụng khác. Nó dường như là một phần của việc bảo hộ, bao cấp ưu đãi cho các tổ chức tín dụng trong nước, và chắc chắn sẽ không tạo thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động ngân hàng tại Việt nam.

b)      Xét ở góc độ mục đích của sửa đổi, Điều 128 khoản 1 của Dự thảo này chưa phản ánh đúng “Các yêu cầu đối với Luật các tổ chức tín dụng mới” được nêu trong điểm b và c của mục 2.2 trong Bản Thuyết minh. Trong 10 năm qua, qui định về việc chi nhánh được xác định hạn mức dư nợ với khách hàng tính trên vốn tự có của ngân hàng nước ngoài không gây ra bất cứ tác động xấu nào tới cơ chế bảo đảm an toàn của hoạt động ngân hàng tại Việt nam. Nói cách khác thì qui định hiện hành đã được trải nghiệm tốt và nên duy trì để bảo đảm tính ổn định trong quản lý. Theo thông lệ quốc tế và thỏa thuận Việt nam ký kết với nước ngoài thì qui định tại Điều 128 khoản 1 của Dự thảo là điều hiếm gặp.

c)      Thuần túy ở góc độ pháp lý, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không có tư cách pháp nhân như đã khẳng định tại Điều 4 khoản 8 của Dự thảo. Vậy mà chi nhánh lại bị giới hạn mức cấp tín dụng trong phạm vi vốn được cấp, đồng thời lại phải có cam kết về bảo lãnh và bảo đảm trách nhiệm của ngân hàng mẹ tại chính quốc. Những điều đó gây ra mâu thuẫn mặt pháp lý và khó lý giải đối với các nhà quản lý ngân hàng nước ngoài. Nó có thể góp phần nâng cao rủi ro pháp lý và không khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam.

d)      Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, việc tạo ra khó khăn trong hoạt động tín dụng của chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam dường như đi ngược lại mục tiêu và định hướng của chính phủ đẩy mạnh tín dụng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.  Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có lợi thế hơn các tổ chức tín dụng khác về nguồn vốn ngoại tệ.  Việc giảm bớt hạn mức cấp tín dụng của chi nhánh của ngân hàng nước ngoài nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc thiếu hụt về nguồn vốn ngoại tệ cho vay trên thị trường do việc các khách hàng hiện vay nợ ngoại tệ hiện nay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tìm kiếm nguồn vay ngoại tệ khác từ các ngân hàng trong nước, làm tăng thêm căng thẳng cho nền kinh tế, gây ra các bất ổn không cần thiết.

Ngoài ra, để ứng phó với thay đổi về hạn mức tín dụng này, ngoài việc cắt giảm cho vay với các khách hàng hiện nay, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể buộc phải tăng vốn tự có. Nhưng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, việc cấp vốn bổ sung cho chi nhánh ở nước ngoài là điều không đơn giản. Hơn nữa, nó đòi hỏi các thủ tục về xin giấy phép và báo cáo tại chính quốc.

e)      Qui định mới này còn có khả năng làm tăng phần “Nợ” đối cán cân thanh toán của Việt nam do việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chuyển các khoản vay vượt hạn mức cho các chi nhánh khác ở nước ngoài. Các khoản vay nợ trong nước sẽ chuyển thành nợ nước ngoài.  Điều này có thể khiến các quốc gia tài trợ hay các nhà đầu tư nước ngoài quan ngại về tình hình tài chính của Việt nam, đặc biệt là trong bối cảnh mà Việt nam cần duy trì mức tăng trưởng nhanh.

f)     Hiện tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp dư nợ tín dụng cho khách hàng đến 15% vốn tự có của ngân hàng mẹ theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005. Vì vậy, tất cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đều đang duy trì một số lượng khoản vay cho các khách hàng có mức đến 15% vốn tự có của ngân hàng mẹ. Nếu Điều 128 của Dự thảo được áp dụng, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc là sẽ vi phạm điều khoản này hoặc sẽ phải chấm dứt hợp đồng vay với hàng loạt khách hàng là các Tổng công ty Nhà nước hoặc nhà đầu tư của các dự án lớn, trọng điểm của Chính phủ.

 

46.   

Điều 128

Khoản 5

Vốn tự có để tính giới hạn cấp tín dụng theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều này được tính trên cơ sở vốn điều lệ đối với tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

 

Đề nghị áp dụng cơ sở để tính vốn tự đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài dựa trên vốn của ngân hàng mẹ.

47.   

Điều 133

Hạn chế đối với công ty chi phối, kiểm soát ngân hàng 

Các công ty sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp trên 20% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết hoặc nắm quyền kiểm soát của một ngân hàng thương mại phải thực hiện các quy định sau đây để bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại:

1. Phải được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần đại chúng và phải là công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm.

2. Phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

3. Phải thiết lập hệ thống quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ toàn bộ các hoạt động đầu tư của công ty.

4. Phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước khi thành lập công ty con, công ty liên kết hoặc thực hiện các khoản đầu tư nhằm nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp khác.

 

Điều khoản này mâu thuẫn với Điều 53 về tỷ lệ sở hữu cổ phần;

Đối với Ngân hàng nước ngoài, không thể bắt buộc ngân hàng mẹ theo yêu cầu tại Điều 133 khoản 2;

Các hạn chế này nên được đưa ra ngay trong các điều kiện về cấp giấy phép ban đầu.

48.   

Điều 136

Khoản 1

Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng; xây dựng chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng.

 

Khi Ngân hàng Nhà nước ban hành các hướng dẫn cụ thể đối với một ngân hàng thương mại về một vấn đề nào đó, ví dụ qua Công văn, kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước công bố rộng rãi (có thể đưa lên website chính thức của Ngân hàng Nhà nước) các hướng dẫn đó để các ngân hàng thương mại khác ý thức được khi gặp phải những vấn đề tương tự.

49.   

Điều 141

Năm tài chính của tổ chức tín dụng bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hàng năm

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho áp dụng năm tài chính một cách linh hoạt, để các ngân hàng, đặc biệt với các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, được lựa chọn năm tài chính phù hợp với ngân hàng mẹ, với sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước.

50.   

Điều 142

Hạch toán kế toán

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện hạch toán theo hệ thống tài khoản, chế độ chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán.

 Thay đổi này thực sự sẽ khiến chi nhánh ngân hàng nước ngoài gặp nhiều khó khăn khi chúng tôi là đơn vị hạch toán phụ thuộc vào ngân hàng mẹ; do vậy, hệ thống tài khoản của chi nhánh phải thống nhất với ngân hàng mẹ. Vì lý do này,  Chúng tôi xin đề nghị bổ sung Điều 142 của Dự thảo như sau: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện hạch toán theo hệ thống tài khoản, chế độ chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi sử dụng hệ thống tài khoản ngân hàng mẹ thì phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.” (Có thể ghi rõ Ngân hàng Nhà nước (Vụ Chế độ Kế toán) hoặc Bộ Tài chính.)

51.   

Điều 159

Khi nhận được yêu cầu của tổ chức tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật về phá sản.

 

Đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét ban hành quy chế phá sản đối với tổ chức tín dụng. Hiện giờ chưa có quy định cụ thể của pháp luật về phá sản cho tổ chức tín dụng, và pháp luật phá sản doanh nghiệp hiện giờ không thể áp dụng cho tổ chức tín dụng bởi tổ chức tín dụng có những đặc điểm riêng biệt.

52.   

Điều 160

Thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng

1. Trong trường hợp tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản, việc thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.

2. Khi giải thể theo Điều 159 của Luật này, tổ chức tín dụng phải tiến hành thanh lý tài sản ngay dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước.

3. Trong quá trình giám sát thanh lý tài sản tổ chức tín dụng theo quy định tại khoản 2 Điều này, nếu phát hiện tổ chức tín dụng không có khả năng thanh toán đầy đủ các khoản nợ, Ngân hàng Nhà nước ra quyết định chấm dứt thanh lý và yêu cầu tổ chức tín dụng nộp đơn mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng theo quy định tại Điều 158 Luật này.

4. Mọi chi phí liên quan đến việc thanh lý tài sản do tổ chức tín dụng bị thanh lý chịu.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế thanh lý tài sản trong trường hợp tổ chức tín dụng tiến hành giải thể tự nguyện.

53.   

Điều 161

Các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng

Các hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng gồm có:

1. Kinh doanh không có giấy phép hoặc kinh doanh không đúng với nội dung ghi trong giấy phép của Ngân hàng Nhà nước; Chuyển nhượng, cho mượn, cho thuê Giấy phép.

2. Hoạt động ngân hàng sau khi đã bị đình chỉ, thu hồi giấy phép hoặc giấy phép hoạt động ngân hàng đã hết hạn.

3. Không chấp hành quy định về mức tiền dự trữ bắt buộc, các tỷ lệ an toàn; không thực hiện đúng lãi suất, phí dịch vụ, mức tiền phạt đã công bố, niêm yết.

4. Vi phạm các quy định về hạch toán, kế toán; lưu giữ hoặc ghi chép sổ sách kế toán không đầy đủ, không trung thực.

5. Ép buộc tổ chức tín dụng cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, bảo lãnh sai quy định; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người vi phạm hoặc mưu lợi ích riêng gây tổn thất cho tổ chức tín dụng.

6. Cạnh tranh bất hợp pháp.

7. Không thực hiện đúng, đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của thanh tra viên ngân hàng trong khi thi hành công vụ.

8. Vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.

9. Các hành vi khác vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

 

Kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ định nghĩa về “các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng” tại khoản 8.

Chúng tôi thấy mục đích của Điều khoản này không rõ ràng. Nếu chỉ để đưa ra các hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng, các hành vi này cần  thống nhất  với các quy định về xử phạt hành chính trong hoạt động ngân hàng. Hoặc cần phải có những chỉ dẫn cụ thể hơn, như hậu quả pháp lý của các hành vi vi phạm này.

 

 

Các văn bản liên quan