Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và quy định về nhãn hàng hoá

Thứ Hai 16:55 29-09-2025

Kính gửi:  Bộ Khoa học và Công nghệ

Trả lời Công văn số 4033/BKHCN-TĐC ngày 20/08/2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và quy định về nhãn hàng hoá (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Đảm bảo tính thống nhất giữa các quy định pháp luật

Pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá quy định việc quản lý chất lượng cho tất cả các sản phẩm, hàng hoá thuộc phạm vi của tất cả các bộ, ngành, nên có phạm vi điều chỉnh rất rộng và đa dạng. Việc này đặt ra yêu cầu cần đảm bảo tính thống nhất giữa Luật và Dự thảo Nghị định quy định chi tiết, giữa quy định của văn bản này với các văn bản quản lý của các bộ chuyên ngành.

Thứ nhất, đảm bảo thống nhất giữa Luật và Dự thảo Nghị định, quy định về hộ chiếu số tại Điều 35 Dự thảo là chưa thống nhất với Luật. Điều 6đ.2 Luật sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá 2025 quy định rằng mã số mã vạch, truy xuất nguồn gốc, nhãn điện tử và hộ chiếu số là các ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá. Nhà nước chỉ khuyến khích áp dụng các công nghệ này, mà không bắt buộc (trừ truy xuất nguồn gốc với hàng hoá có rủi ro cao). Tuy nhiên, dường như cách thiết kế quy định tại Dự thảo không rõ ràng về định hướng khuyến khích trên và dẫn đến cách hiểu việc áp dụng là bắt buộc. Cụ thể, Điều 35.4 Dự thảo quy định việc áp dụng hộ chiếu số theo lộ trình cho một số hàng hoá, Điều 35.4 yêu cầu phải áp dụng đầy đủ hộ chiếu số nếu không tích hợp với nhãn điện tử. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, việc yêu cầu áp dụng hộ chiếu số với các mặt hàng có quy chuẩn, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sẽ tăng gánh nặng thủ tục hành chính, mà không thấy rõ lợi ích.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng chỉ khuyến khích áp dụng hộ chiếu số.

 Thứ hai, về không thống nhất giữa Dự thảo và các văn bản khác, Điều 23.2 Dự thảo yêu cầu doanh nghiệp áp dụng mã số mã vạch và truy xuất nguồn gốc phải thực hiện quy định tại Dự thảo. Nội dung gần như tương tự quy định tại Thông tư 02/2024/TT-BKHCN. 

Tuy nhiên, các quy định này có nguy cơ không thống nhất, chồng chéo với các quy định về truy xuất nguồn gốc khác do các Bộ chuyên ngành ban hành, chẳng hạn, Thông tư 25/2019/TT-BYT, Thông tư 17/2021/TT-BNNPTNT. Đồng thời, theo phản ánh của các doanh nghiệp, các quy định trong Dự thảo không phù hợp với các đối tượng nông sản có đặc điểm đồng nhất toàn chuỗi thấp. Ví dụ, mã truy xuất nguồn gốc, vật mang dữ liệu… áp dụng cho các công đoạn sơ chế, chế biến sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản… là không khả thi. Việc yêu cầu doanh nghiệp cùng lúc áp dụng hai hệ thống truy xuất nguồn gốc là chồng chéo, tăng gánh nặng thủ tục hành chính trong khi không rõ mục tiêu quản lý.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi Điều 29.2 Dự thảo theo hướng doanh nghiệp thực hiện theo pháp luật chuyên ngành. Trường hợp pháp luật chuyên ngành không có quy định thì thực hiện theo Nghị định này.

  • Sản phẩm, hàng hoá rủi ro

Điều 4 Dự thảo quy định về các tiêu chí xác định mức độ rủi ro của sản phẩm, hàng hoá. Quy định cần xem xét ở các nội dung sau:

Thứ nhất, Dự thảo cần quy định rõ ràng, cụ thể nguyên tắc và các tiêu chí phân loại hàng hóa theo 3 mức độ rủi ro nêu trong Luật để các bộ ngành thực hiện thống nhất, tránh quy định chung chung dễ dẫn đến lạm dụng phân loại nhiều sản phẩm vào nhóm rủi ro cao. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung vào Điều 4.1 Dự thảo cụm từ “theo nguyên tắc kim tự tháp: hàng hóa rủi ro thấp chiếm phần lớn, rủi ro trung bình ít hơn, và rủi ro cao ít nhất”. 

Thứ hai, Điều 4.2.b Dự thảo quy định về hồ sơ ban hành danh mục sản phẩm, hàng hoá rủi ro, trong đó yêu cầu báo cáo đánh giá rủi ro theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 31010 với 4 tiêu chí. Theo phản ánh của các doanh nghiệp, các tiêu chí nêu ra chưa rõ ràng, và chưa phù hợp với TCVN  ISO/IEC 31010.

– Dự thảo chưa nói rõ Đánh giá rủi ro theo TCVN  ISO/IEC 31010 là căn cứ theo hệ quả xác suất xảy ra.

– Các tiêu chí a, b, c, d là không có trong ISO/IEC 31010. Tiêu chí a bản chất là hệ quả, không phải tiêu chí, và rất bất cập khi nêu rất chung chung về hệ quả, không làm rõ là ảnh hướng có lợi hay có hại, trong điều kiện sử dụng đúng hay sử dụng sai, và không hề tính đến xác suất xảy ra.

Ví dụ:  “ảnh hưởng đến nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, người già, người có bệnh nền, phụ nữ mang thai”: vậy các sản phẩm có lợi cho sức khỏe trẻ em có bị coi là nguy cơ cao không, hay chỉ các sản phẩm có hại cho sức khỏe trẻ em mới là nguy cơ cao

– Mục c và d phù hợp để đánh giá xác suất xảy ra, chứ không phù hợp là tiêu chí  

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng như sau: 

“Báo cáo đánh giá rủi ro (mức độ rủi ro = hệ quả x xác suất xảy ra) theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 31010 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 31010, bao gồm:

– Phân tích và đánh giá hệ quả về ảnh hưởng có hại có thể xảy ra trong điều kiện sử dụng bình thường:

+ Nguy cơ ảnh hưởng có hại đến sức khỏe 

+ Nguy cơ ảnh hưởng có hại đến môi trường 

+ Nguy cơ ảnh hưởng có hại đến an ninh quốc gia 

– Phân tích và đánh giá khả năng kiểm soát rủi ro trong chuỗi cung ứng: nguy cơ sản phẩm bị biến chất, nhiễm bẩn, làm giả trong quá trình vận chuyển, bảo quản, phân phối; hoặc bị lạm dụng cho các mục đích khác gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, môi trường hoặc an ninh quốc gia

– Xác suất xảy ra các hệ quả đó (dựa theo: Dữ liệu về sự cố, thu hồi, vi phạm chất lượng tại Việt Nam hoặc quốc tế; kết quả thanh tra, kiểm tra trong và ngoài nước; Thông tin cảnh báo từ cơ quan có thẩm quyền và tổ chức quốc tế; hoặc phân tích từ các tài liệu khoa học)”

Góp ý tương tự, đề nghị sửa đổi Điều 5 Dự thảo theo hướng ghi rõ “Tác động có hại“, “ảnh hưởng có hại”.

  • Nhãn hàng hoá

Chương IV Dự thảo quy định về việc ghi nhãn hàng hoá. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định tại Dự thảo còn có các nội dung chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi tiết các nội dung này được nêu tại Phụ lục đính kèm Công văn này. Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, điều chỉnh, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

  1. Quản lý theo rủi ro trong kiểm tra sản phẩm, hàng hoá

Dự thảo quy định về việc kiểm tra sản phẩm, hàng hoá. Tuy nhiên, Dự thảo chưa quy định rõ ràng, cụ thể về áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra sản phẩm, hàng hoá. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định rõ ràng, cụ thể về áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra nhà nước hàng hóa sản xuất, nhập khẩu; và kiểm tra hàng hóa lưu thông trên thị trường (hậu kiểm) với 3 cấp độ kiểm tra (chặt, thường và giảm) theo 3 mức độ rủi ro (cao, trung bình, thấp) để quản lý chất lượng hiệu quả hơn và cắt giảm được thủ tục hành chính, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Cụ thể:

– Điều 86, 87 Dự thảo quy định về miễn, giảm kiểm tra với hàng hoá sản xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, Dự thảo đang thiết kế theo hướng doanh nghiệp phải làm đơn đề nghị và xét duyệt. Quy định này có dạng cơ chế xin cho, trong khi việc quản lý rủi ro có thể sử dụng phân loại tự động theo cơ sở dữ liệu và số hoá thông tin. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định doanh nghiệp phải làm đơn đề nghị.

– Điều 88 Dự thảo quy định về kiểm tra về chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu chỉ tuân theo quy định tại nước nhập khẩu và theo hợp đồng với đối tác nhập khẩu. Tuy nhiên, Dự thảo chưa có quy định miễn kiểm tra theo quy định pháp luật Việt Nam. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định này.

– Điều 89 Dự thảo quy định về kiểm tra chất lượng hàng hoá sau lưu thông. Đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nguyên tắc kiểm tra theo quản lý rủi ro.

  1. Đăng ký nhãn điện tử

Điều 57 Dự thảo quy định doanh nghiệp phải đăng ký nhãn điện tử với cơ quan nhà nước. Mục tiêu của quy định có thể suy đoán là nhằm giúp cơ quan nhà nước có thông tin về nội dung nhãn, làm cơ sở thực hiện hậu kiểm.

Tuy nhiên, việc yêu cầu đăng ký là không cần thiết và phát sinh thủ tục tiền kiểm: doanh nghiệp phải gửi thông tin và chờ hệ thống chấp thuận, sinh mã QR để doanh nghiệp sử dụng. Hơn nữa, quy định này thiếu linh hoạt do nhiều doanh nghiệp có nhu cầu kết hợp các mã khác nhau lại như mã số mã vạch, mã quét nhãn điện tử để tận dụng không gian bao bì sản phẩm.

Thay vào đó, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng chỉ yêu cầu doanh nghiệp thông báo thông tin trên nhãn điện tử. Doanh nghiệp được tự thiết kế mã QR hoặc định dạng khác, tuỳ thuộc vào nhu cầu.

Ngoài ra, trong thực tế, còn có trường hợp sản phẩm đã có mã số thương phẩm toàn cầu GTIN do tổ chức GS1 cấp và sử dụng trong toàn bộ chuỗi cung ứng hàng hóa. Do vậy, để tránh trùng lặp, phải tạo thêm một mã QR, đề nghị cơ quan soạn thảo cho phép doanh nghiệp dùng chính mã số thương phẩm toàn cầu GTIN in trên nhãn gốc để kết nối với nhãn điện tử.

  1. Xuất xứ hàng hoá xuất khẩu

Điều 50.3 Dự thảo quy định hàng hoá xuất khẩu phải ghi xuất xứ hoặc ghi công đoạn cuối cùng hoàn thiện hàng hoá. Việc điều chỉnh ghi xuất xứ hàng hoá là cần thiết nhằm đảm bảo thông tin cho người tiêu dùng, và giả mạo xuất xứ với hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, với hàng hoá xuất khẩu, việc ghi nhãn này cần hết sức lưu ý do hàng hoá phục vụ thị trường xuất khẩu, phải tuân thủ theo pháp luật của nước đối tác. Theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định như Dự thảo sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi xuất khẩu hàng hoá cho đối tác do yêu cầu của các nước nhập khẩu rất khác nhau và khác với quy định Dự thảo. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp ghi nhãn hàng hoá theo quy định của nước xuất khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có trách nhiệm lưu trữ thông tin, hồ sơ để phục vụ hậu kiểm.

  1. Trách nhiệm của tổ chức sử dụng mã số, mã vạch

Điều 31.2 Dự thảo quy định doanh nghiệp sử dụng mã nước ngoài phải được cơ quan nước ngoài cấp hoặc được chủ sở hữu của mã nước uỷ quyền sử dụng. Mục đích của quy định nhằm tránh việc sử dụng mã số GS1 của chủ sở hữu nhưng không được cho phép. Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, việc cho phép sử dụng mã nước ngoài có thể thông qua hợp đồng, thỏa thuận sản xuất, gia công sản phẩm, hàng hóa. Do vậy, để đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng “… được chủ sở hữu của mã nước ngoài cho phép sử dụng”.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và quy định về nhãn hàng hoá. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

Các văn bản liên quan