Góp ý của TS.Phan Chí Hiếu –

Thứ Hai 11:43 22-05-2006
[size=18]Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng và nhu cầu thống nhất điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng

1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng ở nước ta hiện nay
Trong đời sống kinh tế - xã hội, các tổ chức, cá nhân thường xuyên phải tham gia quan hệ với nhau để sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hoá, cung ứng dịch vụ, thuê mướn nhân công... nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình. Hình thức pháp lý của các quan hệ đó chính là hợp đồng.
Hợp đồng trong thực tiễn hết sức phong phú và đa dạng. Người ta có thể dựa trên nhiều căn cứ khác nhau để phân loại hợp đồng thành các nhóm khác nhau:
Căn cứ vào nội dung cụ thể của hợp đồng mà người ta chia thành những loại hợp đồng riêng như: Hợp đồng mua bán, hợp đồng liên kết, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng đại lý, hợp đồng xây dựng...
Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ theo hợp đồng mà người ta chia thành hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế.
Căn cứ vào sự tương xứng về nghĩa vụ của từng bên trong hợp đồng mà người ta chia thành hợp đồng mang tính chất đền bù hoặc hợp đồng không mang tính chất đền bù...
Căn cứ vào cơ cấu chủ thể của hợp đồng, mục đích của các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng và hình thức thể hiện sự thoả thuận của các chủ thể mà pháp luật thực định của Việt Nam còn phân biệt thành hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự.
Nhiều tài liệu còn đề cập tới khái niệm hợp đồng thương mại - loại hợp đồng được giao kết giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan trong hoạt động thương mại. Nói đến hợp đồng thương mại là nói đến lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng. Đó có thể là hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá, hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá, hợp đồng gia công.... Khi thoả mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng thì hợp đồng trong hoạt động thương mại mang tính chất của hợp đồng kinh tế. Những trường hợp còn lại, hợp đồng trong hoạt động thương mại chỉ mang tính chất của hợp đồng dân sự. Trong bài viết này chúng tôi không đề cập tới hợp đồng thương mại như một loại hợp đồng độc lập, bên cạnh hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự.

Với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng và bảo đảm lợi ích công cộng, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ quá trình xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt hợp đồng. ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng tản mát trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Bên cạnh những văn bản quy định những vấn đề chung về hợp đồng như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế còn có rất nhiều văn bản quy định về hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể như: Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Xây dựng, các Thể lệ vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng những phương thức khác nhau... Ngoài ra, chúng ta còn có thể tìm thấy nhiều quy định về hợp đồng trong các văn bản tưởng chừng không liên quan gì đến hợp đồng như các đạo luật về tổ chức doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003), Luật Phá sản năm 2004 và nhiều văn bản khác.

Các quy định về những vấn đề liên quan đến hợp đồng lại hết sức khác nhau trong các văn bản pháp luật nói trên. Có thể liệt kê một số nhóm khác biệt lớn như sau:

(i) Về giao kết hợp đồng
*Thủ tục giao kết hợp đồng: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định rất sơ sài về thủ tục giao kết hợp đồng kinh tế, đặc biệt là giao kết qua phương thức giao dịch gián tiếp (hợp đồng ký bằng công văn, tài liệu giao dịch - ký từ xa) vì vậy, nhiều nội dung liên quan đến thủ tục giao kết hợp đồng hoàn toàn không rõ ràng. Bộ luật dân sự (BLDS) quy định khá chi tiết về các vấn đề liên quan đến thủ tục giao kết hợp đồng, từ Điều 395 đến Điều 403. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong những lĩnh vực cụ thể cũng có các quy định riêng về giao kết hợp đồng, ví dụ, Luật Thương mại quy định về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá từ Điều 49 đến Điều 56. Các văn bản này quy định rất khác nhau về các yếu tố của đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; hậu quả của việc sửa đổi, bổ sung đề nghị giao kết hợp đồng.
*Về hình thức của hợp đồng: BLDS quy định hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể; trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định thì phải tuân thủ quy định đó. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế bắt buộc hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản và hiểu văn bản chỉ bao gồm bản hợp đồng với đầy đủ chữ ký của các bên hoặc công văn, tài liệu giao dịch chứa đựng những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên đã thoả thuận được với nhau. Luật Thương mại còn thừa nhận thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là văn bản hợp đồng.
*Về người ký hợp đồng: BLDS cho phép người được uỷ quyền ký kết hợp đồng có thể uỷ quyền lại cho người khác, nếu được người uỷ quyền ban đầu đồng ý đồng thời thừa nhận hiệu lực của các hợp đồng do người không có thẩm quyền đại diện xác lập nhưng đã được người được đại diện chấp thuận. PLHĐKT không cho phép uỷ quyền lại và không quy định về hiệu lực của các hợp đồng kinh tế ký sai thẩm quyền nhưng sau đó đã được người đại diện theo pháp luật chấp nhận.

(ii) Về hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu
BLDS quy định cụ thể về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và liệt kê các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu. PLHĐKT không quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế mà chỉ liệt kê các trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu và phân biệt thành vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng phần.
Quy định về cách thức xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo BLDS và PLHĐKT cũng có nhiều điểm khác nhau. BLDS quy định bên nào có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường trong khi PLHĐKT chỉ quy định: “Thiệt hại phát sinh, các bên phải chịu”, có nghĩa là thiệt hại sảy ra đối với bên nào thì bên đó tự chịu; bên có lỗi trong việc làm hợp đồng kinh tế vô hiệu cũng không bị bồi thường cho bên ngay tình. BLDS quy định rất rõ ràng về trách nhiệm tài sản (phải thực hiện hợp đồng hoặc phải bồi thường thiệt hại phát sinh) của người ký hợp đồng vô hiệu (các điều 139, 140, 141, 142, 143 BLDS). PLHĐKT không quy định trách nhiệm tài sản của người ký hợp đồng kinh tế vô hiệu mà chỉ quy định trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 39 PLHĐKT) và chế độ trách nhiệm này hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên ngay tình khi tham gia hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ.

(iii) Về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng
*Các hình thức trách nhiệm tài sản: BLDS quy định một hình thức trách nhiệm tài sản là bồi thường thiệt hại (phạt hợp đồng không được coi là chế tài mà là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng). PLHĐKT quy định 2 chế tài là (1) phạt hợp đồng và (2) bồi thường thiệt hại. Luật thương mại còn bổ sung 2 hình thức trách nhiệm hợp đồng khác là buộc thực hiện đúng hợp đồng và huỷ hợp đồng.
*Về mức phạt hợp đồng: BLDS quy định mức phạt hợp đồng tối đa là 5%, PLHĐKT quy định khung phạt là từ 2 đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm còn Luật Thương mại quy định mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm.

(iv) Về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
BLDS quy định rất cụ thể về 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó có nghĩa vụ hợp đồng gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm với sự phân biệt khá rõ giữa cầm cố tài sản và thế chấp tài sản. PLHĐKT chỉ quy định 3 biện pháp bảo đảm là: cầm cố, thế chấp và bảo lãnh và không có sự phân biệt rõ ràng những loại tài sản có thể đưa ra cầm cố hay thế chấp.

(v) Về thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện
BLDS không quy định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự. Bởi vậy, nếu các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể không quy định thời hiệu khởi kiện thì quyền khởi kiện của bên bị vi phạm hợp đồng là vô thời hạn. PLHĐKT cũng không quy định thời hiệu khởi kiện áp dụng cho các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế. Trong thời gian Bộ luật tố tụng dân sự chưa có hiệu lực, nếu các văn bản pháp luật nội dung khác không quy định thời hiệu khởi kiện khác và cách tính thời hiệu khởi kiện khác thì thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp hợp đồng kinh tế là 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp (Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế). Cách xác định ngày phát sinh tranh chấp, tuy đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên ngành số 04/TTLN của TAND tối cao và Viện KSND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế nhưng thực tế vẫn hết sức phức tạp và dễ nhầm lẫn.
Nhiều văn bản pháp luật khác về hợp đồng có những quy định riêng về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng. Ví dụ, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng bảo hiểm là 3 năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp; Luật Thương mại quy định thời hiệu khởi kiện (Luật Thương mại hiện hành sử dụng thuật ngữ thiếu chính xác là thời hiệu tố tụng) áp dụng cho các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động thương mại là 2 năm, kể từ ngày phát sinh quyền khiếu nại và để thực hiện được quyền khởi kiện của mình, bên bị vi phạm còn phải thực hiện nghĩa vụ khiếu nại với bên vi phạm trong thời hạn khiếu nại.
Ngoài ra còn có thể đến vô số điểm khác nhau khác giữa BLDS, PLHĐKT và các văn bản pháp luật chuyên ngành như nguyên tắc ký kết và thực hiện hợp đồng, điều kiện chủ thể của quan hệ hợp đồng, mục đích của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng, căn cứ áp dụng các hình thức trách nhiệm hợp đồng, giới hạn trách nhiệm tài sản của bên vi phạm hợp đồng, các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng ... Chính những điểm khác biệt đó đã gây không ít khó khăn trong thực tiễn ký kết, thực hiện, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.

2. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng trong thời gian hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập tới những vướng mắc liên quan đến việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng và nguyên tắc áp dụng phối hợp các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật khác nhau. Đây là trở ngại lớn nhất, khó vượt qua nhất của các tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng. Việc lựa chọn không đúng nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã dẫn các bên vào mê cung của pháp luật về hợp đồng và làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề không rõ ràng khác.

Xác định chính xác nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo cơ sở pháp lý cho suốt quá trình đàm phán, ký kết, thực hiện, thay đổi hợp đồng hay giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Vai trò của việc lựa chọn chính xác nguồn luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng cụ thể, thể hiện dưới các khía cạnh sau:

Thứ nhất: Pháp luật về hợp đồng quy định điều kiện các bên cần đáp ứng, thủ tục các bên cần tuân thủ khi tham gia quan hệ hợp đồng để đảm bảo rằng hợp đồng các bên ký kết với nhau phát sinh hiệu lực pháp luật.
Vì không hiểu biết pháp luật mà các bên "vô tình" ký kết với nhau những hợp đồng không có hiệu lực pháp lý. Ví dụ, hợp đồng giữa công ty TNHH với thành viên công ty nhưng không được Hội đồng thành viên thông qua; các bên không có đăng ký kinh doanh để thực hiện nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng; người được uỷ quyền ký hợp đồng kinh tế uỷ quyền lại cho người khác ký hợp đồng kinh tế đó; điều khoản thanh toán bằng ngoại tệ và thực tế các bên thanh toán cho nhau bằng ngoại tệ; văn bản hợp đồng không được công chứng, chứng thực hợp lệ trong khi pháp luật quy định loại hợp đồng đó phải được công chứng, chứng thực.
Thứ hai: Trong các văn bản pháp luật có nhiều quy định về hợp đồng nói chung hoặc về hợp đồng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. Các bên có thể căn cứ vào các quy định đó để đàm phán các nội dung của hợp đồng. Nếu các bên thấy những quy định đó là phù hợp với quan hệ hợp đồng của mình thì không cần đàm phán, thậm chí không cần ghi vào văn bản hợp đồng các nội dung đó và trong trường hợp này những quy định mang tính thường lệ của pháp luật đã được các bên đã mặc nhiên thừa nhận và có giá trị bắt buộc thi hành đối với họ.
Nội dung các hợp đồng đã được ký kết trong thực tế thường có quá nhiều nội dung mang tính thường lệ, dạng: "Các bên phải nghiêm túc thực hiện hợp đồng này, bên nào vi phạm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại phát sinh cho bên kia"; "Bên mua phải thanh toán đầy đủ tiền hàng cho bên bán, trường hợp chậm thanh toán phải chịu phạt theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng"; "Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng được giải quyết tại Toà án, theo các quy định của pháp luật; phán quyết của Toà án có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên"...
Thứ ba: Pháp luật về hợp đồng có nhiều quy phạm mang tính mệnh lệnh hoặc cấm đoán, khi đàm phán và ký kết hợp đồng các bên phải biết để thoả thuận nội dung hợp đồng cho phù hợp để hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp lý.
Thường gặp trong thực tế là các thoả thuận về mức phạt, mức bồi thường thiệt hại vượt quá khung mà pháp luật quy định; thoả thuận lựa chọn Toà án không có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc thoả thuận lựa chọn trọng tài trong khi tranh chấp đó không thể giải quyết bằng trọng tài.
Tuy việc xác định nguồn luật có vai trò quan trọng như vậy nhưng trong thực tế, các bên thường coi nhẹ việc xác định nguồn luật hoặc xác định sai nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Nhiều văn bản hợp đồng chỉ liệt kê một cách chiếu lệ tên một số văn bản pháp luật mà các bên cho là có liên quan đến hợp đồng. Nhiều văn bản hợp đồng mẫu của các doanh nghiệp lớn của nhà nước, được đầu tư soạn thảo một cách khá công phu cũng rơi vào tình trạng như vậy. Điều này sảy ra không chỉ đối với những người không có kiến thức pháp luật mà còn đối với cả Thẩm phán, Luật sư hay Kiểm sát viên - những người, về nguyên tắc, phải hiểu pháp luật nhất trong xã hội.

Những vướng mắc liên quan đến việc xác định và áp dụng pháp luật về hợp đồng có thể kể đến:

(i) Nhầm lẫn trong việc lựa chọn BLDS hay PLHĐKT đối với một quan hệ hợp đồng cụ thể.
Nhầm lẫn này mang tính "truyền thống", bởi nó tồn tại suốt từ những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, mặc dù đã được hướng dẫn bằng nhiều văn bản khác nhau nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý triệt để (để xử lý triệt để, có lẽ cần bỏ bớt một trong hai văn bản mà BLDS không thể bỏ, như vậy chỉ còn cách bỏ PLHĐKT). Các nhầm lẫn hay sảy ra đối với những quan hệ "ráp ranh" khi không phân biệt được mục đích kinh doanh hay tiêu dùng; một bên hợp đồng là tổ chức nước ngoài không có chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, việc phân biệt mục đích lợi nhuận hay mục đích sinh hoạt, tiêu dùng khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế là rất khó khăn và hay nhầm lẫn, nhất là khi chủ thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Ví dụ, một cá nhân có đăng ký kinh doanh ký hợp đồng bằng văn bản để sử dụng dịch vụ điện thoại di động. Cá nhân này có thể dùng điện thoại để liên lạc, chắp nối quan hệ với với bạn hàng của mình (vì mục đích lợi nhuận) mà cũng có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn bè, người thân (vì mục đích sinh hoạt tiêu dùng). Vậy hợp đồng sử dụng dịch vụ điện thoại di động này chịu sự điều chỉnh của BLDS hay PLHĐKT?Hay đơn giản hơn, một doanh nghiệp ký hợp đồng đưa cán bộ công nhân viên của mình đi nghỉ mát có được coi là có mục đích kinh doanh hay không?

(ii) Dùng luật tố tụng để xác định luật nội dung
Nhiều Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư dùng luật tố tụng để xác định luật nội dung với tư duy sai lầm rằng khi Toà án giải quyết tranh chấp theo tố tụng kinh tế thì luật nội dung áp dụng là PLHĐKT và ngược lại, khi Toà án giải quyết tranh chấp theo tố tụng dân sự thì luật áp dụng nội dung áp dụng là BLDS. Hiện nay, Bộ luật tố tụng dân sự đã thống nhất thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế và lao động nhưng vẫn tiếp tục phân biệt tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh doanh, thương mại, tranh chấp lao động. Nhiều Thẩm phán vẫn cho rằng việc phân biệt tranh chấp kinh doanh, thương mại với tranh chấp dân sự là cơ sở để lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là BLDS hay PLHĐKT.
Dễ dàng nhận thấy sai lầm của tư duy trên thông qua một ví dụ đơn giản: Hai doanh nghiệp tư nhân ký với nhau 1 hợp đồng mua bán hàng hoá để kiếm lời. Từ hợp đồng này phát sinh tranh chấp. Một bên khởi kiện ra Toà (thời điểm sau ngày 01/01/2005). Theo Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự thì tranh chấp này được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại vì các bên tranh chấp đều có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận khi ký hợp đồng. Nhưng luật áp dụng lại không thể là PLHĐKT do quan hệ hợp đồng mua bán nói trên không được coi là hợp đồng kinh tế do cả hai bên là doanh nghiệp tư nhân - không có tư cách pháp nhân.

(iii) Xác định không đầy đủ các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Khi xác định nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, thông thường các bên (thậm chí cả Luật sư tư vấn cho các bên đàm phán, ký kết hợp đồng và các Thẩm phán tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng) chỉ dừng lại ở việc xác định các văn bản quy định chung về hợp đồng như BLDS hoặc PLHĐKT mà ít khi quan tâm đến các văn bản pháp luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực cụ thể như Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Nhiều trường hợp Toà án giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại nhưng không áp dụng thời hiệu khởi kiện 2 năm, kể từ ngày phát sinh quyền khiếu nại và vì vậy đã đình chỉ việc giải quyết vụ án một cách không có căn cứ. Hoặc ngược lại, cũng do không biết đến "Luật thương mại" mà một số Thẩm phán tiếp tục giải quyết các tranh chấp phát sinh từ tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại, mặc dù đã hết thời hiệu khởi kiện.

(iv) Khả năng áp dụng các quy định của BLDS trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế hoàn toàn không rõ ràng và vì vậy, thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế (đối với những vấn đề PLHĐKT không quy định) tuỳ tiện, thiếu thống nhất, phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của Thẩm phán.
Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực, các Thẩm phán thường không áp dụng quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 171 BLDS để tính thời hiệu khởi kiện tranh chấp kinh tế và vì vậy đã đình chỉ giải quyết một số vụ án kinh tế, kể cả khi bên có nghĩa vụ thừa nhận nghĩa vụ của mình. Hay các Thẩm phán không áp dụng Điều 154 BLDS để thừa nhận hiệu lực của những hợp đồng kinh tế ký sai thẩm quyền nhưng sau đó đã được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thừa nhận.
Nhưng trái lại, có nhiều trường hợp Toà án lại vận dụng quy định của BLDS để giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, ví dụ khi tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ do không được công chứng (vô hiệu do hình thức), mặc dù PLHĐKT không quy định căn cứ vô hiệu này, hay thừa nhận quan hệ ký cược, đặt cọc khi giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển, hợp đồng đại lý...

(v) Không nắm được nguyên lý (cách thức) áp dụng phối hợp các quy định trong pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành đối với từng quan hệ hợp đồng cụ thể. Nếu về cùng một vấn đề mà được quy định khác nhau trong BLDS, PLHĐKT và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác thì các bên thường rất lúng túng trong việc xác định phải ưu tiên áp dụng quy định trong văn bản pháp luật nào.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá ký bằng văn bản giữa 2 thương nhân có tư cách pháp nhân quy định: "Bên nào không thực hiện hợp đồng sẽ bị phạt 10% giá trị hợp đồng". Do một bên không thực hiện hợp đồng, bên kia khởi kiện ra Toà án. Toà án sẽ áp dụng mức phạt là bao nhiêu khi BLDS quy định mức phạt tối đa là 5%, PLHĐKT quy định mức phạt tối đa có thể lên tới 12% còn Luật Thương mại quy định mức phạt tối đa 8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm còn bản thân các bên thì thoả thuận phạt 10%?

Theo tôi, các khó khăn, vướng mắc nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau:

Thứ nhất: Pháp luật về hợp đồng của nước ta hết sức phức tạp, thiếu tính hệ thống, không đồng bộ, hàm chứa nhiều mâu thuẫn. Lẽ ra, các quy định về hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể phải là bước tiếp tục phát triển các quy định mang tính nguyên tắc về hợp đồng nói chung thì ở nước ta tình hình diễn biến theo chiều ngược lại, tức là một số văn bản chuyên ngành, do yêu cầu của thực tiễn lại xuất hiện trước các văn bản chung.

Thứ hai: Mối quan hệ biện chứng giữa hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự chưa được làm rõ. Nhiều người vẫn đang suy nghĩ đơn giản rằng hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự là hai loại hợp đồng riêng biệt, tồn tại độc lập cạnh nhau và tương ứng với chúng là hai lĩnh vực (bộ phận) pháp luật riêng biệt: Pháp luật về hợp đồng kinh tế (mà văn bản trung tâm là PLHĐKT) và pháp luật về hợp đồng dân sự (mà văn bản trung tâm là BLDS). Chính việc "khoanh vùng" cứng nhắc như vậy đã làm phát sinh hàng loạt vấn đề khó giải quyết.

Thứ ba: Cách thức áp dụng phối hợp các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật khác nhau không rõ ràng, trong khi pháp luật thực định hoàn toàn thiếu vắng những quy định chuyển tiếp dưới dạng: Những vấn đề nào không được quy định trong Luật này thì áp dụng các quy định trong Luật kia.

Thứ tư: Do chưa nắm vững cơ sở lý luận về hợp đồng, pháp luật về hợp đồng nên một số đối tượng có liên quan đã vận dụng pháp luật một cách quá cứng nhắc làm sai lệch tinh thần của pháp luật, gây ảnh hưởng quyền tự do hợp đồng của các tổ chức, cá nhân.

3. Một số kiến nghị nhằm thống nhất sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng
Để pháp luật về hợp đồng thực sự phát huy vai trò của mình thì vấn đề mấu chốt cần giải quyết là thống nhất sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng. Muốn vậy, chúng ta cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất: Thiết kế lại mô hình pháp luật về hợp đồng theo hướng bỏ khái niệm hợp đồng kinh tế và tương ứng với nó là PLHĐKT và khi ấy, mọi quan hệ hợp đồng, bất luận được hình thành giữa những ai, trong lĩnh vực gì với mục đích nào đi chăng nữa đều chịu sự điều chỉnh chung của các quy định trong BLDS. Bên cạnh các quy định mang tính nguyên tắc chung về hợp đồng trong BLDS, nếu thấy cần thiết, Nhà nước có thể ban hành các quy định riêng trong các đạo luật chuyên ngành để điều chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ hợp đồng phát sinh trong từng lĩnh vực cụ thể như sản xuất, mua bán, vận chuyển, bảo hiểm, tín dụng, xây dựng... Các quy định trong những văn bản pháp luật chuyên ngành này được xây dựng trên cơ sở các quy định chung của BLDS và tiếp tục phát triển các quy định chung của BLDS trong việc điều chỉnh từng quan hệ hợp đồng cụ thể.
Như vậy, pháp luật về hợp đồng sẽ bao gồm:
- Các quy định của BLDS về hợp đồng hoặc có liên quan đến hợp đồng;
- Các quy định của các đạo luật chuyên ngành như Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật hàng không dân dụng Việt Nam, Luật thương mại, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật xây dựng...có liên quan đến hợp đồng trong các lĩnh vực đó.

Thứ hai: Trong mô hình pháp luật về hợp đồng như đã đề cập ở phần trên, cần phải rà soát để xác định vấn đề nào cần được quy định chung trong BLDS (sửa đổi), vấn đề nào mang tính đặc thù cần quy định riêng hoặc quy định bổ sung trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Theo tôi, các vấn đề sau đây hoàn toàn có thể quy định chung trong BLDS:
- Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng;
- Điều kiện có hiệu lực của giao dịch và các trường hợp giao dịch vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu;
- Thủ tục giao kết hợp đồng: đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm và địa điểm xác lập quan hệ hợp đồng; đại diện và uỷ quyền giao kết hợp đồng;
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Các hình thức trách nhiệm hợp đồng, căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Tuỳ từng lĩnh vực cụ thể, các văn bản pháp luật chuyên ngành có thể bổ sung các quy định liên quan tới:
- Điều kiện cụ thể để các chủ thể tham gia hợp đồng;
- Hình thức mà hợp đồng cần đáp ứng (văn bản thông thường, văn bản có công chứng, chứng thực);
- Một số quy ước riêng trong thủ tục ký kết hợp đồng;
- Một số trường hợp vô hiệu đặc thù;
- Các đặc trưng của việc xác định mức độ chịu trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng;
- Các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng mang đặc thù của từng lĩnh vực cụ thể;
- Thủ tục khiếu nại đối với hành vi vi phạm hợp đồng và thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng (nếu cần quy định riêng).

Thứ ba: Hoàn thiện các quy định của BLDS để chúng thích hợp với việc điều chỉnh mọi quan hệ hợp đồng, kể cả các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh là những quan hệ đòi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật một cách linh hoạt, thông thoáng nhưng vẫn bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các bên và người thứ ba, ví dụ:
- Đa dạng hoá hình thức văn bản hợp đồng bằng cách thừa nhận thừa nhận fax, telex, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là văn bản hợp đồng.
- Hạn chế những loại hợp đồng bắt buộc phải ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực.
- Bổ sung các quy định về việc giao kết hợp đồng thông qua các thủ tục đặc biệt như: đấu thầu, đấu giá, mua sắm công...
- Bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng với sự hỗ trợ của mạng Internet.
- Quy định bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng như hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; hợp đồng mua bán hoặc cho thuê doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh; hợp đồng cho thuê tài chính (leasing); hợp đồng xây dựng; hợp đồng kỹ thuật; các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế; hợp đồng tín thác...

Thứ tư: Trên cơ sở các quy định chung của BLDS cần tiến hành rà soát, hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn bản pháp luật chuyên ngành để đảm bảo:
- Các quy định liên quan đến hợp đồng trong văn bản pháp luật chuyên ngành không nhắc lại một cách thuần tuý các quy định vốn đã rõ ràng trong BLDS.
- Văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ quy định những gì mang tính đặc thù của các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể, hạn chế việc đưa quá nhiều quy định riêng vào luật chuyên ngành.
- Những quy định trong pháp luật chuyên ngành phải được xây dựng trên cơ sở các quy định mang tính nguyên tắc chung của BLDS để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật về hợp đồng. Nói như vậy không có nghĩa là luật chuyên ngành không được quy định khác so với BLDS. Khi xây dựng các quy định về hợp đồng trong văn bản pháp luật chuyên ngành cần lưu ý tới những sự khác biệt cho phép và sự khác biệt không cho phép (mâu thuẫn).

Cuối cùng: BLDS và các văn bản pháp luật chuyên ngành cần quy định rõ nguyên tắc áp dụng phối hợp các quy định về hợp đồng trong BLDS và trong các văn bản pháp luật chuyên ngành để thống nhất trong nhận thức và thực tiễn vận dụng pháp luật.
Có như vậy thì pháp luật về hợp đồng của chúng ta mới đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng và thực sự trở thành công cụ hữu hiệu của mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng để phục vụ cho các nhu cầu của mình.

TS. Phan Chí Hiếu
Phó trưởng khoa đào tạo thẩm phán
Học viện Tư pháp

Các văn bản liên quan