BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NHIỆM KỲ 2002 – 2007

Thứ Ba 13:13 20-03-2007

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,

Thưa đồng chí, đồng bào,

Chính phủ nhận nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2002-2007 được kế thừa những thành quả và kinh nghiệm thu được của hơn 15 năm đổi mới, đặc biệt là những kết quả trực tiếp của nhiệm kỳ 1997- 2002, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều diễn biến phức tạp khó lường, nhất là các tác động tiêu cực do những biến động bất lợi của tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và thế giới; trong nước, thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên diện rộng với mức độ khá nghiêm trọng; các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá ta.

Trong bối cảnh đầy khó khăn và thách thức, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá cao, văn hoá - xã hội có bước tiến bộ trên nhiều mặt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện, công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, thế và lực của đất nước được tăng cường và vững mạnh hơn. Đây là kết quả phấn đấu của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự quản lý và lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ đã đóng góp tích cực vào thành tựu chung.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ vẫn còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém bất cập, việc huy động và sử dụng các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, tính bền vững của sự phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, văn hoá - xã hội phát triển còn chậm và còn nhiều bức xúc, cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, quan liêu tham nhũng lãng phí chưa bị đẩy lùi. Những yếu kém này có phần trách nhiệm của Chính phủ do những thiếu sót, bất cập trong quản lý và lãnh đạo chỉ đạo điều hành.


Trong các kỳ họp của Quốc hội, Chính phủ đều có báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ theo các nghị quyết của Quốc hội. Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9 đã nhìn tổng quát lại tình hình kinh tế - xã hội cả 5 năm 2001 - 2005.

Chính phủ cũng đã báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội.

Báo cáo này xin không trình bày lại toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội mà chỉ tập trung kiểm điểm về công tác quản lý nhà nước và sự lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong cả nhiệm kỳ vừa qua, đánh giá những tiến bộ và những thiếu sót để rút ra những bài học có thể giúp ích cho Chính phủ nhiệm kỳ tới.

 

I. NHỮNG TIẾN BỘ CHỦ YẾU

1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, kiểm soát và ổn định kinh tế vĩ mô, huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; Chính phủ xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo điều hành kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2002 - 2007 là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các nội dung chủ yếu: hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, c ơ chế, chính sách vận hành nền kinh tế thị trường; chỉ đạo xây dựng và thực hiện các giải pháp tạo lập, vận hành thông suốt các loại thị trường phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật về kinh tế, chuyển mạnh sang điều hành bằng pháp luật trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Trong 5 năm qua, Chính phủ đã trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội và dự án luật, pháp lệnh; đồng thời, đã xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh[i]  nhằm tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh hoàn chỉnh, minh bạch. Các quy định mới đã xác lập các quan hệ kinh doanh bình đẳng, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy và thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển.


Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, Chính phủ đã tập trung cho các giải pháp tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Đến nay, thị trường hàng hoá, dịch vụ đã có bước phát triển vượt bậc. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm sau tăng cao hơn năm trước: bình quân giai đoạn 2002-2006 tăng gần 19%/năm; riêng năm 2006 tăng 21%. Mức tăng giá tiêu dùng bình quân 2001-2005 là 5,1%/năm. Thị trường tài chính bước đầu hình thành; thị trường chứng khoán và các dịch vụ tài chính phát triển khá nhanh với sự tham gia của ngày càng nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế[ii]. Phương thức và công cụ huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển từng bước được đa dạng hoá và th c hiện theo các nguyên tắc thị trường. Thị trường bất động sản cũng bước đầu được hình thành, khắc phục một phần các giao dịch tự phát, nhất là sau khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai sửa đổi, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở....

Trong chỉ đạo.điều hành, Chính phủ luôn xác định tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với kiểm soát và ổn định kinh tế vĩ mô, coi ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững. Theo tinh thần đó, 5 năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo phân phối và sử dụng nguồn lực theo hướng bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; ổn định và cân bằng thu chi ngân sách, giảm mạnh các khoản chi bao cấp; tăng chi cho đầu tư phát triển và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc[iii].

Với những giải pháp điều hành phù hợp và có trọng tâm trọng điểm, các cân đối vĩ mô của nước ta ngày càng vững chắc hơn: an ninh lương thực được đảm bảo; giá trị đồng tiền cơ bản ổn định; bội chi ngân sách được kiểm soát ở dưới mức 5%; tăng giá tiêu dùng được kiềm chế ở mức dưới 2 con số/năm và thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cán cân thanh toán quốc tế được giữ cân bằng, dự trữ ngoại tệ tăng dần (hiện đạt mức 15 tuần nhập khẩu so với bình quân 6,5 tuần trong giai đoạn 1997 - 2001 ), nợ Chính phủ và nợ quốc gia luôn được giữ trong giới hạn an toàn; tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng giảm. Nhập siêu vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần[iv]; cơ cấu hàng xuất khẩu, nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực[v]. Sản xuất trong nước đáp ứng ngày càng nhiều hơn cho nhu cầu sử dụng trong nước. Quỹ tiết kiệm tăng nhanh, bình quân khoảng 9%/năm, trong khi quỹ tiêu dùng tăng 7%/năm đã thúc đẩy tích cực tăng trưởng kinh tế.

Nhiệm kỳ qua, Chính phủ đã triển khai thực hiện nhất quán chính sách tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư kinh doanh và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, trước hết là các loại hình kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể và đặt ra mục tiêu đến năm 2010, cả nước có khoảng 500.000 doanh nghiệp.

Hệ thống các văn bản pháp quy, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp đã tập trung vào mục tiêu khuyến khích mọi công dân, doanh nghiệp phát triển đầu tư kinh doanh, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực ngành nghề, địa bàn; tôn trọng quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do trong đầu tư kinh doanh theo pháp luật; bảo đảm cho cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và nguồn lực phát triển.

Các chính sách và giải pháp điều hành của Chính phủ cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần, để loại hình kinh tế này ngày càng trở thành phổ biến. Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo cơ quan hành chính các cấp triển khai các chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với một số ngành, một số sản phẩm quan trọng, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế.

Với những giải pháp và chính sách phù hợp, khu vực kinh tế dân doanh đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ. Từ năm 2002 đến năm 2006, có khoảng 170 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 17%. Hiện nay, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh chiếm gần 34% trong tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Hàng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tiếp nhận hơn 90% số lao động mới. Các doanh nghiệp dân doanh, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ đã tạo ra 45% GDP.

Chính phủ cũng đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn đã có bước phát triển mới theo hướng đa dạng ngành nghề, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn nhiều hơn; đã tăng đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn và nông dân; chỉ đạo sắp xếp lại hệ thống nông, lâm trường quốc doanh; có chính sách phát  triển các làng nghề gắn với hình thành các khu, cụm công nghiệp; khuyến khích phát triển mạnh các loại hình kinh tế tập thể và kinh tế trang trại với những hình thức thích hợp. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện tốt hơn[vi].

Nhiệm kỳ qua, Chính phủ đã triển khai nhiều hoạt động nhằm khai thác và phát huy tiềm năng về kinh tế biển. Đã chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình biển Đông và hải đảo; xây dựng chiến lược và quy hoạch thăm dò, khai thác dầu khí, thăm dò và khai thác nguồn lợi thuỷ sản; khuyến khích và đầu tư phù hợp để phát triển nhanh ngành công nghiệp đóng tàu; phát triển mạnh ngành du lịch gắn với phát triển kinh tế biển; đồng thời, quan tâm cải thiện đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Chính phủ đang chỉ đạo triển khai thực hiện Chương trình hành động về phát triển kinh tế biển theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X của Đảng nhằm khai thác và phát huy tối đa hiệu quả của khu vực kinh tế này, phấn đấu để Việt Nam sớm rở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển, gắn với việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Đồng bộ với quá trình tạo lập thể chế kinh tế thị trường, quán riệt nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã tập trưng chỉ đạo kiên quyết việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty; chuyển hẳn các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động đầy đủ theo cơ chế thị trường để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; thực hiện mạnh việc giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể, sát nhập, phá sản các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài.

Trong nhiệm kỳ, đã sắp xếp lại với các hình thức là 3.815 doanh nghiệp nhà nước, bằng 71% số doanh nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2002; trong đó, thực hiện cổ phần hóa 2.440 doanh nghiệp nhà nước chiếm gần 76% tổng số doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa từ trước đến hết năm 2006; đã hoàn thành thí điểm cổ phần hoá 3 tổng công ty nhà nước và đang triển khai cổ phần hoá hơn 20 tổng công ty theo kế hoạch đề ra cho năm 2007. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá đều hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt

động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, với hình thức đa sở hữu mà sở hữu nhà nước là chi phối, hoạt động kinh doanh đa ngành trong đó có ngành nghề chính đã tiếp tục thực hiện tốt vai trò chủ lực, nòng cốt trong nền kinh tế, góp phần quan trọng để nhà nước điều tiết và ổn định kinh tế vĩ mô.

Quy mô, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước tăng lên. Năm 2006, doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng 12%, đóng góp khoảng 39% GDP, 400% thu ngân sách nhà nước, 50% kim ngạch xuất khẩu.

Đến cuối năm 2006, cả nước còn 1.940 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn, phần lớn hoạt động trong các lĩnh vực công ích, an ninh, quốc phòng, nông, lâm trường... và một số ngành nghề mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chưa muốn tham gia. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực này đã góp phần bảo đảm các dịch vụ công cộng, phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân.

Nhiệm kỳ qua, Chính phủ dã tập trung chỉ đạo việc đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tự, xoá bỏ mọihình thức phân biệt đối xử để huy động có hiệu quả các nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Đặc biệt quan tâm hoàn thiện thể chế, chính sách theo cơ chế thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tập trung vào cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh; phân cấp mạnh về quản lý đầu tư; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước để bảo đảm đầu tư của Nhà nước có hiệu quả và khắc phục nhanh tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí.

Giai đoạn 2002 - 2007, mức huy động đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh. Hàng năm, vốn đầu tư xã hội tăng khoảng 19%. Tổng vốn đầu tư được huy động và đưa vào nền kinh tế trong 5 năm 2002 - 2006 đạt khoảng 1.425 nghìn tỷ đồng, bằng gần 39% GDP; riêng năm 2006, mức huy động hơn 40% GDP[vii], trong đó, vốn ngân sách nhà nước khoảng 22% tổng đầu tư xã hội.

Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo[viii].

Cùng với việc khơi dậy các nguồn lực trong nước, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các giải pháp để tiếp tục cải thiện môi trường và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong thời kỳ 2001 - 2005,tổng vốn FDI đăng ký đạt gần 21tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 14 tỷ USD, vượt 30% so với chỉ tiêu đề ra và chiếm khoảng 17% tổng vốn đầu tư xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng tiếp tục gia tăng, đạt trên 11tỷ USD. Tính đến hết năm2006, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 38% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp khoảng 16% GDP, 58% kim ngạch xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô) và 9,5% tổng thu ngân sách nhà nước.

Vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh đã làm tăng năng lực sản xuất, cải thiện kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút công nghệ mới, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và tăng thu ngân sách.

2. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, trong nhiệm kỳ qua Chính phủ đã tích cực triển khai trên diện rộng các hoạt động đối ngoại cả song phương lẫn đa phương, trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế - thương mại, văn hoá và cả an ninh, quốc phòng trong sự phối hợp chặt chẽ với các hoạt động quốc tế của Đảng, Chủ tịch nước, Quốc hội và các đoàn thể nhân dân.

Các hoạt động đối ngoại phục vụ cho cả 3 mục tiêu: củng cố và tăng cường hơn nữa môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới; không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.

Năm năm qua đánh dấu sự gia tăng đáng kể quan hệ hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới. Chúng ta đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 5 nước, đưa tổng số các quốc gia có quan hệ ngoại giao với nước ta lên 171nước. Đi đôi với việc nỗ lực nâng quan hệ hợp tác về nhiều mặt với các nước láng giềng lên tầm cao mới, Chính phủ đã dành mối quan tâm lớn cho việc cải thiện và thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên thế giới, đem lại những tiến triển tích cực. Mặt khác, Chính phủ luôn chú trọng mở rộng sự hợp tác với các nước bạn bè truyền thống ở châu á, châu Phi và Mỹ La-tinh, trong đó có việc tổ chức hội nghị chuyên đề và thông qua Chương trình hợp tác với châu Phi.

Một hướng lớn khác là lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã đạt được thoả thuận với tất cả các nước láng giềng về hầu hết các vấn đề biên giới lãnh thổ, tạo tiền đề xây dựng vành đai biên giới hoà bình, hợp tác và cùng phát triển với các nước xung quanh. Điều đó không những góp phần củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tăng cường sự tin cậy với các nước láng giềng mà còn góp phần thiết thực vào việc khai thác tài nguyên và huy động thêm các nguồn lực phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước.

Với những hoạt động và kết quả đạt được nêu trên, có thể nói rằng chưa bao giờ môi trường quốc tế của nước ta thuận lợi như ngày nay.

Đồng thời, hoạt động đối ngoại của Chính phủ đã hướng mạnh vào việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phục vụ thiết thực cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ.

Trong nhiệm kỳ này, kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã tăng từ 16,7 tỷ USD lên 39,8 tỷ USD, tăng gần 2,5 lần, bình quân hàng năm tăng trên 21,5% so với dự kiến là trên 16%, trong đó có 9 mặt hàng đã đạt kim ngạch trên 1tỷ USD, đóng góp đáng kể vào việc gia tăng sản xuất và tạo thêm việc làm. Có được thành tựu đó là nhờ nỗ lực rất lớn của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, đi đôi với những nỗ lực của Chính phủ về hoàn thiện cơ chế, chính sách, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.

Đã dành mối quan tâm thích đáng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dịch vụ. Mặc dầu còn nhiều yếu kém trong công tác đào tạo và quản lý song hoạt động xuất khẩu lao động đã phát triển đáng kể cả về số lượng lẫn thị trường và thu nhập. Ngành du lịch nước ta đã tạo được đà phát triển mạnh hơn và đạt được những kết quả mới.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) cũng có bước tiến vượt bậc. Chính phủ đã chú trọng việc không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, nhất là đã trình Quốc hội thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp chung cho cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài; đơn giản hoá các thủ tục; đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nhằm vào thị trường giàu tiềm năng, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, những lĩnh vực công nghệ cao và đa dạng hoá địa bàn đầu tư. Với những nỗ lực đó và sự cố gắng cao của các địa phương, doanh nghiệp, đồng thời nhờ vị thế mới của đất nước và xu thế chuyển dịch vốn đầu tư trong khu vực, Việt Nam đã trở thành điểm đến khá hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, riêng năm 2006 đã vượt ngưỡng 10 tỷ USD, gấp 1,5 lần năm trước và gấp đôi mức bình quân 5 năm 2001 - 2005. Gần đây khi nước ta từng bước mở cửa thị trường tài chính, kể cả thị trường chứng khoán, dòng vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài bước đầu được đưa vào, góp phần làm sống động thêm thị trường vốn. Ý thức rõ tác động hai chiều của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, một mặt, Chính phủ nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết quốc tế, mặt khác tăng cường quản lý nhà nước và thường xuyên theo dõi sát sao để kịp thời có sự điều chỉnh cần thiết nhằm bảo đảm cho thị trường này phát triển lành mạnh.

Một nguồn lực đáng kể mà Chính phủ luôn quan tâm đó là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và các nhà tài trợ song phương, cả từ Chính phủ và từ các tổ chức phi chính phủ.

Công tác vận động ODA được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, nhằm vào việc đầu tư cải thiện kết cấu hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội; đồng thời Chính phủ thường xuyên quan tâm tới việc đẩy mạnh tiến độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng, chống thất thoát và bảo đảm khả năng trả nợ. Nguồn vốn ODA liên tục gia tăng, năm sau cao hơn năm trước và năm 2006 đạt trên 4,4 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay, thể hiện niềm tin của cộng đồng các nhà tài trợ vào sự phát triển của nước ta.

Bên cạnh các hoạt động song phương, Chính phủ luôn coi trọng hoạt động trong các tổ chức quốc tế và trên các diễn đàn đa phương. Đặc biệt thông qua việc tổ chức thành công các sự kiện lớn như ASEM-5 và APEC- 14, vị thế quốc tế của nước ta đã được nâng lên đáng kể; cộng đồng quốc tế ngày càng thấy rõ Việt Nam là một thành viên xây dựng, luôn tích cực đóng góp cho hoà bình, ổ định, hợp tác và là một nước có khả năng tổ chức, điều hành những sự kiện quốc tế lớn, một quốc gia năng động, ổn định và rộng mở.

Một hướng lớn của nhiệm kỳ Chính phủ 2002 - 2007 là thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Cùng với việc chỉ đạo thực hiện có kết quả các cam kết theo Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, mở ra một thị trường xuất khẩu rộng lớn mới; Chính phủ đã tập trung chỉ đạo quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) theo cả hai hướng: vừa tích cực chuẩn bị ở trong nước, vừa đẩy mạnh đàm phán. Đã khẩn trương chuẩn bị và trình Quốc hội thông qua hoặc sửa đổi nhiều văn bản luật; nỗ lực hoàn thiện các loại hình thị trường; đẩy mạnh việc sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước; tạo thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của nhiều doanh nghiệp dân doanh. Chỉ đạo sát sao việc xây dựng phương án và tiến hành đàm phán theo tinh thần tranh thủ tối đa những cơ hội mà WTO có thể mang lại và hạn chế đến mức thấp nhất những thách thức có thể nảy sinh đối với nước ta. Ngày 07 tháng 11năm 2006 vừa qua WTO đã kết nạp nước ta là thành viên thứ 150 và Quốc hội ta cũng đã phê chuẩn Nghị định thư về việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại toàn cầu, mở đầu thời kỳ Việt Nam hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới nhằm tranh thủ thêm các nguồn lực cho sự phát triển.

Nhìn tổng quát, hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong nhiệm kỳ qua đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, giữ vững môi trường hoà bình, mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhận thức rõ rằng, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động đối ngoại; phấn đấu làm cho quan hệ giữa nước ta với các nước đi vào chiều sâu và bền vững hơn; tăng cường tính chủ động tích cực để nâng cao hơn nữa vị thế của đất nước; gia tăng công tác tuyên truyền đối ngoại để nhân dân thế giới hiểu rõ hơn tình hình nước ta và đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc chống phá Việt Nam; phối hợp tốt hơn hoạt động đối ngoại trong các lĩnh vực khác nhau và giữa các ngành các cấp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế - thương mại.

3. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân

Nhận thức rõ việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân là mục tiêu và là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để phát triển bền vững ở nước ta, nhiệm kỳ qua Chính phủ đã chú trọng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp với các chương trình, dự án cụ thể. Đã bố trí mức kinh phí thoả đáng và kết hợp có hiệu quả đầu tư của Nhà nước với việc huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong các lĩnh vực: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên thoát nghèo.

Sự lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ luôn hướng vào việc đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó đặc biệt coi trọng việc chăm lo cho đồng bào nghèo và những nơi còn nhiều khó khăn. Nhiều mục tiêu thiên niên kỷ được thực hiện trước thời hạn, chỉ số phát triển con người (HDI) được nâng lên[ix]. Chất lượng nguồn nhân lực có nhiều tiến bộ,trí thức được phát huy. Bình đẳng về giới và vai trò của phụ nữ trong xã hội được nâng cao, quyền lợi của trẻ em được bảo đảm. Doanh nghiệp được coi trọng, người có công được Nhà nước và xã hội quan tâm. An sinh xã hội và chất lượng cuộc sống có bước tiến bộ mới. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ mức 423 USD năm 2001 lên 722 USD năm 2006.

Chính phủ đã chú trọng chỉ đạo cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động xoá đói giảm nghèo thông qua việc thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo; đã chỉ đạo thực hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu để tăng hiệu quả đầu tư cho các phúc lợi xã hội; đổi mới nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, củng cố hệ thống giáo dục quốc dân; nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ; đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế, đóng bảo hiểm y tế cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác; tạo cơ hội và điều kiện để người lao động, nhất là người nghèo, người dân sống ở các vùng đặc biệt khó khăn được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản của xã hội; triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất; hỗ trợ đất và vốn sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; hỗ trợ y tế, giáo dục và trợ giúp lương thực cho hộ đói nghèo, hộ gia đình bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2%, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Năng lực chỉ đạo điều hành phòng, chống và đẩy lùi các dịch bệnh nguy hiểm có nhiều tiến bộ. Mỗi năm cả nước tạo được hơn 1,5 triệu việc làm; tỷ lệ thất nghiệp cuối năm 2006 còn khoảng 5%. Đến nay, hầu hết các xã, phường trên cả nước đã có trạm y tế, tủ sách, phòng đọc, bưu điện, nhà văn hoá; trên 70% trạm xá xã có bác sĩ, khoảng 52% dân số cả nước được nhà nước hỗ trợ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh; 25 vạn hộ gia đình được hỗ trợ nhà ở, trên 90% số hộ xem được truyền hình, trên 95% số hộ được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, trên 93% số hộ nông thôn có điện sinh hoạt, 66% số hộ nông thôn được sử dụng nước sạch, trên 96% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã.

Công tác thông tin tuyên truyền, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc được đẩy mạnh, chất lượng đời sống văn hoá ở cơ sở được nâng lên. Quan tâm hơn công tác quản lý, khắc phục yếu kém và phát huy mạnh mẽ vai trò của báo chí. Mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng đến khắp các xã, phường trong cả nước; cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục đào tạo được tăng cường, đến năm 2006 đã xóa trên 65 nghìn lớp học 3 ca, lớp học tranh, tre, nứa, lá ở các cấp học phổ thông; hệ thống trường, lớp thuộc loại hình bán công, dân lập, tư thục phát triển khá nhanh; các trường đại học, cao đẳng đã được sắp xếp lại một bước theo quy hoạch và chiến lược phát triển.

Nhiều thành tựu khoa học - công nghệ mới được ứng dụng, tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao, có sức cạnh tranh, phục vụ xuất khẩu và thay thế nhập khẩu; đã hiện đại hoá một bước các hoạt động điều tra cơ bản, thu thập xử lý, lưu trữ dữ liệu về môi trường và khí tượng thuỷ văn.

4. Đẩy mạnh cải cách hành chính và chống tham nhũng, lãng phí

 Chính phủ luôn xác định cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động chỉ đạo điều hành; đã thông qua và triển khai 7 chương trình hành động thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 trên các lĩnh vực: thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hoá nền hành chính nhà nước, trong đó xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung công việc, cách thức tổ chức và phân công thực hiện[x].

Đồng thời với việc đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng thể chế, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội và tăng cường quản lý nhà nước, Chính phủ đã tích cực chỉ đạo công tác rà soát và cải cách thủ tục hành chính. Mục tiêu đề ra là tăng cường tính công khai, minh bạch, đơn giản, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp, nhất là các lĩnh vực đang có nhiều bức xúc như: đất đai, xây dựng, đầu tư, quy hoạch, đăng ký kinh doanh, thuế, hộ tịch, hộ khẩu... Việc triển khai áp dụng cơ chế "một cửa", thí điểm mô hình "một cửa liên thông" đã thu được những kết quả tích cực, góp phần đổi mới phong cách, lề lốilàm việc, chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, được nhân dân và doanh nghiệp hoan nghênh.

Để tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, trong nhiệm kỳ qua, Chính phủ đặc biệt quan tâm đến việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, các cấp hành chính cho phù hợp với nội dung và yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế kinh tế mới, thực hiện phân cấp mạnh cho các bộ và chính quyền địa phương trong các lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách, biên chế, đầu tư, đất đai, y tế, giáo dục..., đồng thời với việc tăng cường chế độ công vụ và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.

Đã chỉ đạo hoàn thiện hệ thống quy chế làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, đề ra biện pháp giảm hội họp, giảm thủ tục giấy tờ hành chính, ban hành cơ chế phối hợp trong xây dựng và kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được Chính phủ đặc biệt quan tâm lãnh đạo chỉ đạo, nhất là khi có Nghị quyết Trung ương và Luật Phòng, chống tham nhũng, với quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước, công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả tích cực bước đầu, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị; nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực nổi cộm được phát hiện xử lý nghiêm, tạo được niềm tin của nhân dân và bạn bè quốc tế về quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.

Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được khẩn trương hoàn thiện. Đã tập trung chỉ đạo soạn thảo và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Nghị định quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng và Nghị định về minh bạch tài sản, thu nhập; đồng thời với việc tăng cường chỉ đạo công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí; xác định những lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm, tham nhũng để tập trung kiểm tra, thanh tra như: quản lý đầu tư xây dựng; quản lý sử dụng đất đai; quản lý ngân sách nhà nước và tài sản công[xi]. Đã chủ động, kiên quyết chỉ đạo xử lý các vụ việc tham nhũng, đặc biệt trong năm 2006 đã chỉ đạo tập trung điều tra, xử lý nghiêm minh theo pháp luật đối với các vụ án kinh tế lớn, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm, được nhân dân đồng tình[xii]

5. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội

 Chính phủ đã thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Quốc phòng, an ninh của đất nước trong nhiệm kỳ qua được bảo đảm ngày càng vững chắc và có những tiến bộ mới. Hệ thống pháp luật về quốc phòng và an ninh tiếp tục được hoàn thiện. Hiệu lực quản lý nhà nước và ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được nâng lên. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Tiềm lực quốc phòng, an ninh và thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố, tăng cường. Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh được thực hiên tốt hơn.

Đã làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo đảm an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị lớn của đất nước và các hoạt động đối ngoại cấp cao tổ chức tại Việt Nam, đặc biệt là Hội nghị ASEM-5 và Hội nghị APEC-14; thường xuyên tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, kiềm chế tội phạm hình sự, triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm nguy hiểm. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực, đã giải quyết kịp thời hơn các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân, giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu nại tố cáo phức tạp, kéo dài, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và công dân.

Những tiến bộ về quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, công tác quốc phòng an ninh và trật ty an toàn xã hội vẫn còn những yếu kém bất cập. Ở một số địa bàn vẫn còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định. Cuộc đấu tranh chống tội phạm và các tệ nạn xã hội còn thiếu các biện pháp đồng bộ và chưa tạo được chuyển biến rõ nét. Tuy đã có nhiều cố gắng để kiềm chế, ngăn chặn nhưng tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng, ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn vẫn còn khá phổ biến. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn còn chậm, tình trạng khiếu kiện đông người vẫn còn xảy ra ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.

 

II. NHỮNG YẾU KÉM, BẤT CẬP

1. Thể chế kinh tế thị trường vẫn chưa đồng bộ, chất lượng của sự phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp

Trong nhiệm kỳ qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc chỉ đạo điều hành trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ.

Nhận thức về việc chuyển sang điều hành kinh tế theo cơ chế thị trường chưa được nhất quán trong cả hệ thống quản lý.Quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập. Hệ thống luật pháp về kinh tế đã dần được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu vận hành nền kinh tế thị trường. Các quy định vận hành một số loại thị trường còn thiếu đồng bộ và chậm hoàn chỉnh, nhất là thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Các quy định về quyền, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể tham gia thị trường chưa đủ rõ ràng, minh bạch. Thủ tục hành chính cho hoạt động của doanh nghiệp còn phức tạp, rườm rà, chậm được cải cách. Không ít chính sách trợ giúp cho phát triển doanh nghiệp chưa được phát huy mạnh mẽ trên th ực tế. Thị trường chứng khoán phát triển khá nhanh nhưng chưa vững chắc, thể chế quản lý chưa đồng bộ, năng lực quản lý còn bất cập.

Việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá và đã chuyển sang hoạt động đầy đủ theo cơ chế thị trường còn nhiều bất cập. Việc sắp xếp lại các nông, lâm trường quốc doanh còn chậm. Chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa thật hiệu quả, chưa có những chuyển biến đột phá và chưa huy động được nhiều nguồn lực cho phát triển khu vực này.

Chính sách thu hút đầu tư chưa thật đồng bộ, môi  trường đầu tư còn nhiều hạn chế, sức cạnh tranh trong thu hút đầu tư còn thấp. Giải ngân nguồn vốn ODA còn thấp, quy trình thẩm định và phê duyệt chương trình, dự án còn phức tạp, giải phóng mặt bằng chậm... làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

Tăng trưởng kinh tế 5 năm qua vẫn thấp hơn so với khả năng và chậm hơn nhiều nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá, chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành sản xuất có công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động; quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp[xiii]; năng suất lao động và hiệu quả kinh tế tăng chậm. Thu ngân sách còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ thuế nhập khẩu và dầu thô.

Việc khai thác, sử dụng tài nguyên, đất đai và các nguồn lực của đất nước hiệu quả chưa cao. Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy. Thực hiện chưa thật tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi còn bị Ô nhiễm nặng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống.

Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trên cả 3 cấp độ: cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh ngành sản phẩm và cạnh tranh của doanh nghiệp. Thể hiện rõ nhất là về môi trường kinh tế vĩ mô và trình độ quản lý còn nhiều hạn chế; trình độ công nghệ và cơ sở hạ tầng kinh tế còn lạc hậu; giá thành, chi phí kinh doanh cao[xiv], hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn thấp.

2. Cơ chế quản lý đổi mới chậm và chưa đồng bộ, chất lượng hiệu quả hoạt động văn hoá, xã hội cỏn thấp

Cơ chế quản lý về văn hoá xã hội tuy đã có bước tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, chưa phù hợp với từng lĩnh vực, chậm thích ứng với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương xã hội hoá dù được quan tâm chỉ đạo và được coi là khâu đột phá của đổi mới cơ chế quản lý nhưng việc nhận thức còn chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện còn yếu kém, chưa có lộ trình và kế hoạch đồng bộ, chưa huy động được nhiều tiềm lực của xã hội cho phát triển lĩnh vực này.

Cơ chế tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường chưa phù hợp với kinh tế thị trường; chính sách khuyến khích sáng tạo, gắn nghiên cứu khoa học với giáo dục đào tạo và phát triển kinh tế - xã hội chưa đủ thích hợp.

Quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin, văn hoá, giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập; việc huy động nguồn lực xã hội cho công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế chưa được kết hợp hài hoà với bảo vệ môi trường. Một số chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo chưa được tổ chức thực hiện tốt.

Chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, lao động, thể dục thể thao... còn nhiều mặt hạn chế. Việc đấu tranh chống các thói hư tật xấu, suy thoái đạo đức, ngăn ngừa văn hoá độc hại kết quả chưa cao. Tiêu cực trong giáo dục đào tạo chậm được khắc phục. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đời sống đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp xa so với các vùng khác

Ô nhiễm môi trường đang đe doạ sự phát triển bền vững. Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Công cuộc xoá đói giảm nghèo còn nhiều khó khăn, kết quả đạt được chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng chưa được thu hẹp.

3- Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, kỷ luật kỷ cương chưa nghiêm; quan liêu tham nhũng lãng phí chưa bị đẩy lùi

Nhìn chung tiến bộ về cải cách hành chính còn chậm, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu và yêu cầu đề ra là đến năm 2010 phải xây dựng được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại. Chương trình, kế hoạch đề ra là khá đầy đủ và cụ thể nhưng công tác chỉ đạo triển khai thực hiện kém hiệu quả. Một số chủ trương và giải pháp cải cách hành chính quan trọng được đề ra khá sớm như đẩy mạnh phân cấp, xã hội hoá dịch vụ công, giảm đầu mối, giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian, đổi mới nội dung và phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính... nhưng việc chỉ đạo thực hiện thiếu kiên trì quyết liệt nên kết quả đạt được còn hạn chế, ảnh hưởng đến tiến trình cải cách hành chính nói chung.

Hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở còn nhiều yếu kém, bất cập, hoạt động thiếu thống nhất, thông suốt, chưa ngang tầm đòi hỏi của sự nghiệp phát triển đất nước. Tình trạng tổ chức bộ máy cồng kềnh, chức năng chồng chéo, chế độ trách nhiệm và quyền hạn về tổ chức cán bộ không rõ ràng... vẫn chưa được khắc phục. Thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức cũng như quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thấp.

Chưa có những biện pháp thật kiên quyết, hiệu lực, hiệu quả để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính. Vẫn còn tình trạng cán bộ, công chức sách nhiễu, vô trách nhiệm khi giải quyết công việc của dân, của doanh nghiệp nhưng chưa bị xử lý. Việc theo dõi, kiểm tra chấp hành các chính sách, thể chế và quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng như của các Bộ và chính quyền địa phương vẫn đang là một khâu yếu.

Tuy đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh, phòng ngừa nhưng tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng gây hậu quả xấu về nhiều mặt. Trong khi đó, chưa chú trọng chỉ đạo đi sâu nghiên cứu và tập trung giải quyết những nguyên nhân làm phát sinh quan liêu, tham nhũng, lãng phí như: những bất cập trong hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, quy chế quy trình giải quyết công việc, phân công phân cấp, chế độ công vụ và đạo đức công chức... cũng như đề ra những giải pháp thích hợp, có hiệu quả để tạo sự gắn kết giữa cải cách hành chính với chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy công quyền.

Bên cạnh những việc đã làmđược, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế. Tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Công tác xây dựng thể chế về phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ; cơ chế quản lý kinh tế và quản lý tài sản nhà nước vẫn còn nhiều sơ hở. Việc triển khai công tác phòng, chống tham nhũng không ít nơi thực hiện chưa nghiêm; nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực đã được phát hiện nhưng việc điều tra xét xử còn chậm, có việc xử lý chưa nghiêm. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa được đề cao. Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thanh tra, kiểm tra và thực hiện các thủ tục tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử chưa thật chặt chẽ và còn mất nhiều thời gian.

 

4. Những thiếu sót, bất cập nêu trên có nguyên nhân chủ quan về chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa ngang tầm và còn nhiều yếu kém

Việc thể chế hoá, cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng nhiều việc vẫn còn chậm, chưa đồng bộ và chất lượng chưa cao. Hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh vẫn chưa kịp thời, tình trạng nợ đọng nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật còn kéo dài; không ít văn bản pháp quy để quản lý nhà nước và lãnh đạo chỉ đạo của Chính phủ chưa sát với thực tế và còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn nhau, khó hiểu, khó thực hiện, làm giảm hiệu lực điều hành của Chính phủ và làm cho chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước chậm đi vào cuộc sống và tạo ra kẽ hở cho tiêu cực phát sinh.

Việc phân giao chức năng, nhiệm vụ cho các Bộ, các thành viên Chính phủ vẫn còn trùng dẫm và chưa đủ bao quát. Việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Chính phủ tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thật toàn diện, một số nhiệm vụ trọng tâm và công trình trọng điểm chưa được xác định đúng mức và tập trung chỉ đạo tương xứng.

Công tác kiểm tra, thanh tra vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ được đề ra nhưng thiếu kiểm tra đôn đốc, thiếu sơ kết uốn nắn và chưa kịp thời phát hiện những quy định không phù hợp, có sơ hở để sửa đổi, bổ sung và ngăn ngừa tiêu cực. Vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng và các thành viên Chính phủ trong chỉ đạo tổ chức thực hiện có lúc, có nơi chưa tương xứng và chưa được đề cao đúng mức.

Là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xin nghiêm túc nhận trách nhiệm về những yếu kém bất cập trong quản lý nhà nước, trong lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ trong nhiệm kỳ qua.

 

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Từ thực tiễn lãnh đạo chỉ đạo điều hành trong nhiệm kỳ 5 năm qua, Chính phủ rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

1. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng. Phải kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá sát với tình hình thực tế các Nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp quy, các chương trình hành động và nhiệm vụ kế hoạch công tác hàng năm, hàng tháng của Chính phủ. Trong lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trên tất cả các lĩnh vực phải luôn bám sát Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tất cả vì lợi ích của đất nước, của dân tộc. Thường xuyên sâu sát lắng nghe tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân để điều chỉnh bổ sung các chính sách, giải pháp cho phù hợp với cuộc sống và kịp thời tổng kết từ thực tiễn để kiến nghị hoàn thiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tinh thần kiên trì và đẩy mạnh tiến trình đổi mới, hình thành ngày càng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới để huy động mọi nguồn lực, cả trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bảo đảm độc lập chủ quyền của đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, có tính nguyên tắc, quyết định phương hướng hoạt động của Chính phủ.

2. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phải luôn tuân thủ các Nghị quyết và sự giám sát của Quốc hội, nghiêm túc tiếp thu những ý kiến hợp lý của các cơ quan Quốc hội và của các vị đại biểu Quốc hội. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải luôn giữ mối quan hệ phối hợp công tác chặt chẽ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt trong việc chuẩn bị và bảo đảm cho các kỳ họp của Quốc hội thành công[xv].

Chính phủ và Thủ tưởng Chính phủ cũng phải thường xuyên giữ mối quan hệ và phối hợp hành động có hiệu quả với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Thực sự cầu thị tiếp thu và giải quyết kịp thời các ý kiến và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, của cộng đồng các doanh nghiệp thông qua tổ chức đại diện của mình. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy vai trò trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức vận động khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

3. Trong mọi hoạt động của mình, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải luôn nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Phải xây dựng Quy chế làm việc của Chính phủ đủ chặt chẽ, cụ thể; đồng thời phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, theo nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ: chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước, nhưng có phân giao nhiệm vụ rành mạch cho từng Bộ, từng ngành theo hướng một việc giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính và có quy chế phối hợp rõ ràng. Việc phân công nhiệm vụ giữa Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và các thành viên Chính phủ phải đúng chức trách, vừa bảo đảm sự bao quát toàn diện, vừa đủ cụ thể, chuyên sâu. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phải bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của tập thể Chính phủ qua các nghị quyết của Chính phủ về chương trình công tác toàn khoá, về nhiệm vụ kế hoạch công tác hàng năm, hàng tháng và đối với những vấn đề quan trọng; đồng thời phải đề cao vai trò trách nhiệm của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các thành viên Chính phủ, các Thủ trưởng cơ quan của Chính phủ trong việc thực thi đầy đủ quyền hạn của mình để chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao; khuyến khích sự năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

4. Trong quản lý nhà nước và lãnh đạo chỉ đạo điều hành, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phải triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định; đồng thời phải xác định rõ trọng tâm trọng điểm trong từng lĩnh vực, trong từng thời gian để tập trung sức chỉ đạo thực hiện, với các giải pháp và hành động thiết thực. Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ phải luôn bám sát nhiệm vụ và tình hình thực tế, nắm chắc khâu then chốt, điều hành kiên quyết và thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện; biểu dương khen thưởng đúng và kịp thời, khẩn trương kết luận làm rõ và phê phán, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm; thực hiện nghiêm kỷ luật kỷ cương, phát huy sức mạnh của cả hệ thống hành chính để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra. Khi có nhiệm vụ đột xuất, phải sâu sát thực tế, phân tích rõ tình hình, đề ra các giải pháp cụ thể và chỉ đạo quyết liệt khẩn trương huy động mọi nguồn lực để đạt được kết quả tốt nhất.

5. Phải đặc biệt quan tâm xây dựng Chính phủ thành một tập thể đoàn kết nhất trí, cộng đồng trách nhiệm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chung. Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và các thành viên Chính phủ phải luôn đề cao trách nhiệm và vai trò gương mẫu của mình trong việc chấp hành các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ cương, nguyên tắc, quy chế làm việc; tận tuỵ thực hiện các nhiệm vụ được giao, chủ động phối hợp và tôn trọng lẫn nhau; rèn luyện gìn giữ phẩm chất đạo đức lối sống, công tâm trong sáng trong tự phê bình và phê bình; thực sự dân chủ, công bằng trong công tác cán bộ...Trên cơ sở đó tạo nên sự đồng thuận và sức mạnh của tập thể Chính phủ và cả hệ thống hành chính.

Chính phủ nhận thức rằng, những bài học được rút ra từ những thành tựu, tiến bộ và những yếu kém, bất cập trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong quản lý nhà nước và sự lãnh đạo chỉ đạo điều hành của Chính phủ trong 5 năm qua, không chỉ là kiểm điểm của Chính phủ trong nhiệm kỳ, mà còn là cơ sở cho Chính phủ nhiệm kỳ tới, cũng như chính quyền các cấp nghiên cứu tham khảo nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, trong lãnh đạo chỉ đạo điều hành và xây dựng hệ thống chính quyền thật sự là của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa đồng chí, đồng bào,

Chính phủ khoá 11, nhiệm kỳ 2002 - 2007 sắp kết thúc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã nỗ lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, nghiêm chỉnh thi hành các Nghị quyết của Quốc hội, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Thay mặt Chính phủ, tôi xin bày tỏ lời cám ơn sâu sắc đến Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, cộng đồng các doanh nghiệp, đồng bào ta cả trong và ngoài nước đã tạo điều kiện, ủng hộ và hợp tác cùng Chính phủ hoàn thành nhiệm vụ rất nặng nề và cũng rất nhiều thử thách trong suốt nhiệm kỳ qua. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Chính phủ và nhân dân các nước, các tổ chức quốc tế về tình hữu nghị và sự giúp đỡ quý báu mà các bạn đã giành cho đất nước, nhân dân và Chính phủ Việt Nam.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, thời cơ thuận lợi là rất lớn nhưng khó khăn thách thức cũng không nhỏ, nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, không có sự lựa chọn nào khác, chúng ta phải hội nhập kinh tế quốc tế thành công, bảo đảm bằng được độc lập tự chủ trong tiến trình hội nhập, thực hiện tăng trưởng kinh tế cao đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môitrường, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta hy vọng và tin tưởng rằng Chính phủ nhiệm kỳ tới sẽ phát huy tốt nhất các kết quả đã đạt được, khắc phục nhanh các mặt còn yếu kém bất cập của Chính phủ trong nhiệm kỳ qua, tiếp tục đổi mới toàn diện, từ nội dung, phương thức quản lý nhà nước, cũng như sự lãnh đạo chỉ đạo điều hành, phát huy sức mạnh to lớn và đầy sáng tạo của cả dân tộc, huy động các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợiNghị quyết Đại hội X của Đảng, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Xin cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách, đồng bào, đồng chí và các bạn.

 



[i] Trong 5 năm qua, Chính phủ đã trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội 120 dự án luật, pháp lệnh (gồm 93 dự án luật, 27 dự án pháp lệnh). Tính đến hết tháng 2/2007, Chính phủ đã xây dựng và ban hành 275 văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh (gồm 266 nghi định, 04 quyết định và 05 Chỉ thị của Thủ tướng Chinh phủ).

 

[ii] Đến tháng 3/2007 đã có 193 công ty niêm yết đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán. Tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu đạt 371.329 tỷ đồng, bằng 38% GDP năm 2006 (tăng gần 40 lần so với cuối năm 2005).

[iii] Sau khi Quốc hội ban hành và tổ chức thực hiện Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi, đã động viên thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 đạt trên 22,5% GDP, vượt chỉ tiêu đề ra (20% - 21%), thu nội địa (không kể dầu thô) tăng với tốc độ cao khá ổn địinh (bình quân khoảng 20% năm) và dần trở thành nguồn thu chủ yếu (tăng từ 50,4% năm 2002 lên trên 55% năm 2005). Tính chung từ năm 2001 - 2005 chi ngân sách nhà nước đã đạt 913.000 tỷ đồng, tương ứng với 28,7% tổng GDP 5 năm, tăng 21,7% (163.000 tỷ đồng) so với mục tiêu đề ra (720.000 - 750.000 tỷ đồng), trong đó chi cho đầu tư phát triển khoảng 30 - 31% (mục tiêu 25 - 26%); năm 2006 đạt trên 315.000 tỷ đồng (dự toán là 294.4 nghìn tỷ đồng, tăng 20%). Bội chi ngân sách nhà nước trong nước 5% GDP, đáp ứng được mục tiêu d kiến (bình quân 2001-2005: 4,85% GDP, năm 2006 khoảng 5% GDP).

[iv] 2001-2005, ta nhập siêu 15,3 tỷ USD, bằng 17,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; năm 2006: 4,8 tỷ USD bằng 12,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.

[v] Trong tổng kim ngạch xuất khấu, tỷ trọng hàng công nghiệp nặng giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 35,8% năm 2005; hàng nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản giảm từ 29% xuống còn 24,4%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,9% lên 39,8%. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, năm 2005 nhóm máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm 32,5 %; nhóm nguyên, nhiên vật liệu chiếm 61,3 %, nhóm hàng tiêu dùng chiếm 6,2 %.

[vi] Đến năm 2006, cả nước hiện có 17.700 hợp tác xã và 340.000tổ hợp tác. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tập thể đạt 4,l%/năm với tỷ lệ giá trị gia tăng tăng 6,6%/năm; đóng góp 6-7% GDP.

Ở địa bàn nông thôn, thu nhập bình quân đầu người tăng trên 1,7 lần; công nghiệp, dịch vụ đã chiếm khoảng 40% GDP; sản lượng lương thực cây có hạt tăng 7%. Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20,4% GDP cả nước.

 

[vii] Tỷ lệ huy động vốn đầu tư toàn xã hội trung bình của các nước trên thế giới là 16 - 18% GDP, của các nước châu Á là 32 - 35% GDP.

[viii] Năm năm qua, đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm 70% tổng mức vốn đầu tư (trong đó, ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 13,5%, công nghiệp và xây d ng 45%, giao thông - bưu điện 12,5%; lĩnh vực xã hội 27,2%). Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong các ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm khoảng 23%; giao thông vận tải, bưu điện khoảng 27,5%; giáo dục, đào tạo khoảng 8,9%; y tế, xã hội khoảng 6,9%; văn hóa, thể thao khoảng 4,3%; khoa học và công nghệ khoảng 3,1%. Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình quan trọng về hạ tầng kinh tế - xã hội.

 

[ix] Theo báo cáo năm 2006 của Liên Hiệp quốc thì chỉ số HDI của nước ta đã tăng từ  0,690 (2000) lên 0,709 (2004), xếp thứ 109/177 nước.

[x] Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật;

- Chương trình nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tố chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước;

- Chương trình tinh giản biên chế;

- Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;

- Chương trình cải cách tiền lương;

- Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công; Chương trình hiện đại hoá hành chính.

 

[xi] Từ 2002 - 2005, Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ chỉ đạo thanh tra, kiểm tra theo Quyết định số 273/QĐ-TTg ngày 12/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ và Kế hoạch số 05-KH/TW ngày 10/9/2003 của Bộ Chính tri về kiểm tra đầu tư, xây dựng và quản lý, sử dụng đất đai; đã phát hiện giá trị sai phạm trên 2.700 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi cho ngân sách nhà nước trên 400 tỷ đồng. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã giao Thanh tra Chính phủ tiến hành 33 cuộc thanh tra, kiểm tra các dự án, công trình có vốn đầu tư lớn; phát hiện sai phạm, lãng phí, thất thoát với tổng giá trị 1.560,147 tỷ đồng và 5.478.583 USD; đã kiến nghị thu hồi vào ngân sách nhà nước 164,345 tỷ đồng, 207.923 USD, nhiều đối tượng là cán bộ lãnh đạo các cấp đã bị x lý hình sự, trong đó cá 2 căn bộ cấp Thứ trưởng, 4 cán bộ cấp Vụ, 19 cán bộ cấp cơ sở, 24 cán bộ cấp Tổng công ty.

[xii] Vụ án xảy ra tại Ban quản lý các dự án 18, Bộ Giao thông vận tải; vụ Nguyễn Đức Chi lừa đảo tại dự án Rusalka (Khánh Hòa); và tham nhũng xảy ra tại Thanh tra Chính phủ; vụ Nguyễn Lâm Thái lừa đảo xảy ra tại các bưu điện tỉnh, thành phố; vụ vi phạm về đất đai tại Đồ Sơn (Hải Phòng); vụ Mạc Kim Tôn (Thái Bình); vụ mua bán quota dệt may tại Bộ Thương mại; vụ án điện kế điện tử tại Công ty Điện lực thành phố Hồ Chí Minh.

 

[xiii] Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, năm 2004, GDP và GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 1.677 tỷ USD và 1.290 USD/người; tương tự, con số này của Malaixia là 117 tỷ USD và 4.650 USD/người, của Philíppin là 97 tỷ USD và 1.170 USD/người, của Thái Lan là 159 tỷ USD và 1.540 USD/người, của Việt Nam là 45 tỷ USD và 562 USD/người.

[xiv] Theo Báo cáo cạnh tranh kinh tê toàn cầu năm 2006, chỉ số cạnh tranh toàn cầu của nước ta xếp thứ 77 trên 125 nước được khảo sát, trong đó, chỉ số cạnh tranh về môi trường kinh tế vĩ mô xếp thứ 53/125, về thể chế công xếp thứ 74/125, về công nghệ xếp thứ 85/125; cơ sở hạ tầng 83/125

[xv] Chính phủ đã tích cực tham gia và phối hợp với các cơ quan của Quốc hội trong việc chuẩn bi nội dung 238 tờ trình, báo cáo phục vụ 47 phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và 11 kỳ họp Quốc hội.

Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ đã chuẩn bị và trả lời 1.468 chất vấn của các đại biểu Quốc hội trong 10 kỳ họp Quốc hội, nhiều giải trình có sức thuyết phục cao được Quốc hội và nhân dân đồng tình. Các thành viên Chính phủ là đại biểu Quốc hội, tuy bận rất nhiều công việc, nhưng vẫn cố gắng thu xếp tham gia các kỳ họp Quốc hội, đóng góp nhiều ý kiến thiết thực vào các văn bản pháp luật và nghị quyết của Quốc hội.

 

Các văn bản liên quan