Đại biểu Nguyễn Thái Học tỉnh Phú Yên góp ý dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) tại kì họp thứ 7 của QH
Đại biểu Đinh Thị Mai Lan tỉnh Cao Bằng góp ý dự thảo Luật nhà ở (sửa đổi) tại kì họp thứ 7 của QH
Đại biểu Trần Ngọc Vinh thành phố Hải Phòng góp ý dự thảo Luật nhà ở (sửa đổi) tại kì họp thứ 7 của QH
Trần Ngọc Vinh - TP Hải Phòng
Kính thưa Chủ tọa kỳ họp,
Kính thưa Quốc hội,
Sau gần 8 năm triển khai thực hiện Luật nhà ở, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì Luật nhà ở hiện hành cũng xuất hiện nhiều tồn tại, bất cập cần phải nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt phù hợp với những quy định mới tại Hiến pháp năm 2013 và tình hình thực tế hiện nay. Qua nhiều lần tiếp thu ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và các ngành, các cấp, Ban soạn thảo đã làm rõ hơn quan điểm sửa đổi luật, phạm vi điều chỉnh đã được phân định cụ thể. Luật đã thể hiện được nhiều nội dung đặc thù về nhà ở, bố cục các chương, mục hợp lý, phát triển nhà ở khu vực nông thôn đã được chú trọng. Tuy nhiên tôi đề nghị Ban soạn thảo cũng cần làm rõ một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, về giải thích từ ngữ tại Điều 3. Khoản 1, Điều 3 quy định: Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và sử dụng vào các mục đích khác mà pháp luật không cấm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, nhà ở quy định tại luật này bao gồm nhà ở riêng lẻ và nhà ở chung cư. Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ quy định sử dụng vào những mục đích khác là những mục đích gì. Nếu không làm rõ được quy định sử dụng vào mục đích khác mà pháp luật không cấm sẽ có thể dẫn đến quyền của chủ sở hữu bị hạn chế khi có quy định cấm của văn bản dưới luật. Trong khi đó Điều 14, Khoản 2 của Hiến pháp 2013 quy định về quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Do đó, tôi đề nghị quy định rõ, đầy đủ mục đích sử dụng khác của nhà ở ngay trong luật.
Thứ hai, về những hành vi bị cấm trong phát triển, quản lý, sử dụng nhà ở tại Điều 7, tôi đề nghị xem xét tính khả thi của nội dung quy định tại Khoản 12, 13 của điều này vì trên thực tế việc sử dụng nhà ở của hộ gia đình, cá nhân ở nước ta đều kết hợp giữa mục đích ở với hoạt động kinh doanh nhỏ để phát triển kinh tế gia đình, nên nếu quy định như dự thảo luật sẽ không khả thi và chưa hợp lý. Hơn nữa, theo quy định nếu các hộ gia đình không tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh và không được sự cho phép của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định thì đương nhiên không được phép kinh doanh nên không cần phải cấm. Ngoài ra, với các loại hình kinh doanh vật liệu cháy nổ, kinh doanh các dịch vụ gây ô nhiễm môi trường, tiếng ồn cũng là loại kinh doanh có điều kiện nên phải tuân thủ các điều kiện. Vì vậy, quy định cấm ở đây là thừa. Tôi đề nghị Ban soạn thảo dự thảo Luật nhà ở (sửa đổi) chỉ cần quy định ngắn gọn cấm các loại hình thức kinh doanh trái phép hoặc bị cấm tại nhà ở và chung cư là đủ, không cần quy định khó hiểu như dự thảo luật.
Thứ ba, về chính sách phát triển nhà công vụ, trong thời gian qua, việc quản lý, sử dụng nhà công vụ còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng sử dụng nhà công vụ không đúng đối tượng, sai mục đích hoặc nhiều người không đủ tiêu chuẩn vẫn được ở nhà công vụ. Điều này đã gây dư luận không tốt trong xã hội, cử tri cũng cho rằng chính sách này không đảm bảo công bằng xã hội. Tôi thấy hình như luật hiện nay đang có xu hướng hướng tới phục vụ cho một số ít đối tượng chứ không nhằm vào đối tượng phổ thông. Với chính sách phát triển nhà công vụ trong Luật nhà ở cũng vậy, chúng ta dễ nhận thấy rằng nhà công vụ hiện nay thực chất là bao cấp cho một số ít đối tượng với giá rẻ, trong khi số đông cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức trẻ ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có nhu cầu thực sự thì không được đáp ứng. Hiện nay số cán bộ, công chức trẻ đang công tác tại Hà Nội rất lớn nhưng thử hỏi họ đã được hưởng lợi gì từ chính sách nhà ở công vụ chưa. Tại sao chúng ta không tiếp cận vấn đề phát triển nhà công vụ nhằm hướng tới mọi đối tượng thực hiện công vụ, thay vì chỉ phục vụ một số đối tượng nhất định.
Trường hợp ngân sách chưa đáp ứng được vấn đề đó, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu chỉ nên quy định đối tượng được hưởng chế độ nhà công vụ là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước được bố trí nhà ở công vụ theo yêu cầu về mặt an ninh và lực lượng vũ trang được điều động luân chuyển theo yêu cầu quốc phòng, an ninh Khoản a, Khoản c, Điều 32 dự thảo luật. Các đối tượng còn lại nghiên cứu theo hướng khoán đưa vào tiền lương để họ tự hoàn toàn về nhà ở, ngân sách không phải bỏ ra một số tiền quá lớn để xây dựng và giá trị đất có thể chuyển thành tiền dùng vào việc khác. Đồng thời không phải duy trì một cơ quan quản lý về nhà ở công vụ vừa tiết kiệm chi phí, vừa chấm dứt tình trạng biến tướng nhà công vụ chuyển thành nhà ở cá nhân.
Ngoài ra, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi Điều 35, Khoản 2, Điểm c, dự thảo luật quy định như vậy về nghĩa vụ của người thuê nhà công vụ là còn thiếu. Vì nếu họ thế chấp hoặc thừa kế thì sẽ thế nào. Tôi đề nghị sửa lại khoản này như sau: "Không chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh cho bên thứ ba vay vốn hoặc cho mượn, cho thuê nhà ở".
Thứ năm, về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai Điều 144. Theo quy định tại Điều 144 dự thảo luật cả hai đối tượng là chủ đầu tư và người mua cùng có quyền thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai, mặc dù có quy định trước khi bán, chủ đầu tư phải giải chấp. Tôi thấy rằng quy định này cần phải được nghiên cứu một cách thấu đáo hơn nữa, xuất phát từ tình hình thực tiễn quản lý nhà ở hiện nay. Quy định như vậy nhưng rất dễ dẫn đến tình trạng cả hai đối tượng cùng thế chấp một nhà ở trong dự án xây dựng. Bởi vì người mua khó có thể biết được chủ đầu tư đã giải chấp đối với nhà ở mà chủ đầu tư đã bán. Ở góc độ quản lý khi nhà ở còn nằm trên giấy thì quản lý nhà nước không biết được lịch sử của căn nhà, không biết được chủ đầu tư bán cho bao nhiêu người.
Thứ sáu, về đối tượng và điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam Điều 155. Tôi nhất trí với quy định của dự thảo luật là cho phép các cá nhân nước ngoài được nhập cảnh vào Việt Nam, nếu có nhu cầu đều có quyền mua và sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, để đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, đồng thời hạn chế các trường hợp lợi dụng chính sách của nhà nước về nhà ở gây lũng loạn thị trường bất động sản, tăng cường công tác quản lý nhà nước về nhà ở, tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định về đảm bảo điều kiện chặt chẽ hơn đối với người nước ngoài sở hữu tại Việt Nam như cho cá nhân người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên mới sở hữu nhà. Không cho phép họ mua cả chung cư hoặc mua một số lượng lớn tập trung vào khu vực nhất định.
Tôi xin hết, trân trọng cảm ơn Quốc hội.