Ý kiến của Ông Đặng Văn Thanh – Hội Kế toán vả Kiểm toán Việt Nam

Thứ Ba 14:18 19-03-2013
PGS. TS Đặng Văn Thanh
Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam      

  

Hiến pháp là đạo Luật cơ bản của nhà nước. Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước, quyền, nghĩa vụ và các mối quan hệ chủ yếu giữa nhà nước và công dân.

1. Về tổng thể:

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có 124 Điều, sắp xếp thành 11 Chương. Về cơ bản là hợp lý. Nội dung cơ bản đã kế thừa cấu trúc Hiến pháp năm 1992, cơ cấu lại các chương I và Chương XI, chương II và chương III, đảo vị trí chương IV thành chương II và Chương X thành chương VIII, bổ sung một chương mới (Chương X) quy định về các thiết chế độc lập. Đó là cấu trúc có thể chấp nhận được, đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính khái quát cao của Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của nhà nước.

Tuy nhiên, đề nghị:

  - Viết lại các điều, khoản thành các quy phạm pháp luật mang tính khái quát cao hơn, ở tầm hiến định, có thể áp dụng trực tiếp trong thực tế và làm cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến như Hiến pháp nhiều nước. Hạn chế dùng các tính từ trong các điều ở chương II và chương III về Quyền và nghĩa vụ của công dân, về Kinh tế xã hội văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Ví dụ: cạnh tranh lành mạnh (Điều 56), quan hệ lao động hài hòa và ổn định (Điều 61)...

   - Các điều của Hiến pháp cần viết gọn lại, rõ, và dễ hiểu với đa số nhân dân. Mỗi điều của Hiến pháp có thể có 2 nội dung, trong đó có nội dung mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh, mục tiêu, định hướng, có nội dung chứa quy phạm pháp luật để bảo đảm thực hiện mục tiêu, định hướng nêu trên. Cần thống nhất trong các điều quy định về quyền và nghĩa vụ công dân đề bao gồm 3 nôi dung: Quyền, nghĩa vụ và sự đảm bảo của nhà nước đối với các quyền cơ bản của Công dân: Quyền sống, đi lại, cư trú, nơi ở, ngôn luận, báo chí, hội họp, biểu tình, quyền bầu cử, quyền sở hữu, kinh doanh, quyền làm việc, có việc làm, quyền học tập, nghiên cứu khoa học, quyền bình đẳng... Nên bổ sung thêm quyền mưu cầu hạnh phúc.

Cân nhắc kỹ và đảm bảo thống nhất trong quy định giữa các quyền, quy định giữa các điều có cùng nội dung về quyền và nghĩa vụ công dân cũng như sự đảm bảo của nhà nước ở Chương II và chương III, như các Điều 35 và 63: Đảm bảo an sinh xã hội, Điều 38 và 61: Quyền làm việc và lựa chọn việc làm; Điều 41 và 62: Chăm sóc sức khỏe; Điều 42 và 65,66: Quyền học tập; Điều 43 và 67: Quyền nghiên cứu khoa học; Điều 44 và 56: Quyền tự do kinh doanh; Điều 46 và 68: Môi trường và bảo vệ môi trường...

2 Về Lời nói đầu

Nên thu gọn lại, mang tính tuyên ngôn hơn là lý‎ giải dài dòng. Nên bỏ đoạn 2 và câu đầu của đoạn 3 và đoạn 4. Giữ lại đoạn 1, đoạn 4, một phần đoạn 2 và 3. Câu đầu đoạn 4 nên bắt đầu từ: Hiến pháp này (thay bằng hiến pháp sửa đổi lần này...) tiếp tục....

3- Về Quyền con người và quyền cơ bản của công dân (Chương II)

- Quy định rõ hơn về quyền bầu cử và ứng cử Đại biểu Quốc hội và các chức danh nhà nước.

- Bổ sung thêm quy định tại điều 2, điều 3: Nhân dân có quyền làm bất cứ điều gì pháp luật không cấm. Cơ quan nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép,

- Làm rõ hơn quyền sống (Điều 21: Mọi người có quyền sống). Nên quy định thêm quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được chết.

- Đảm bảo quyền phúc quyết của nhân dân.

- Điều 17 cần gộp hai khoản 1& 2: Mọi người có quyền bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa –xã hội.

- Bỏ bớt các câu theo quy định của pháp luật hoặc theo luật định trong các quyền.

- Điều 40 nên bổ sung thêm: Trẻ em có Quyền được khai sinh sau các quyền được bảo vệ chăm sóc và giáo dục.

- Cần quy định thêm quyền con người của các nhóm người dễ bị tổn thương (trẻ em, người khuyết tật, người di tản, tị nạn, người sống chung với HIV/AIDS. Dân tộc thiểu số…)

4- Các quy định về chế độ kinh tế (Chương III).

Chế độ kinh tế là sự tập trung nhất của chính trị. Không có một kinh tế nào lại không mang nội dung chính trị, chính trong kinh tế phản ảnh rõ nét nhất các quan hệ chính trị. Sự thể hiện chế độ kinh tế trong Hiến pháp là sự thể chế hóa những quan điểm chính trị - kinh tế của giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó. Hiến pháp 1992 đặc biệt coi trọng vấn đề chế độ kinh tế.

4.1. Quy định về tính chất nền kinh tế và chế đ kinh tế

 Mục đích cao nhất và cuối cùng của sản xuất xã hội và sự phát triển kinh tế thể hiện lập trường và thái độ của Nhà nước, thể hiện tiêu chuẩn của sự phát triển được dùng cho mọi chính sách kinh tế và mọi hành vi quản lý nhà nước về kinh tế. Mục đích tối cao của hoạt động kinh tế là đem lại hạnh phúc thỏa mãn vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mọi biện pháp quản lý nhà nước, của người làm kinh tế phải hướng vào giải phóng năng lực sản xuất, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất.

   - Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tiếp tục khẳng định tính nhất quán trong đường lối phát triển nền kinh tế thị trường; phát triển đồng bộ các loại thị trường (Điều 54, 55) là đúng. Nhưng cần hiểu đúng và làm rõ nội hàm của khái niệm kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa” (XHCN) trong Hiến pháp tránh tình trạng hiểu và áp dụng chưa thống nhất. Việc cụ thể hóa “định hướng XHCN ở nhiều đạo luật dẫn đến sự can thiệp sâu, rộng của Nhà nước vào các quan hệ xã hội, nhất là các quan hệ kinh tế.

Do đó, cần làm rõ nội hàm kinh tế thị trường “định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường được xây dựng và bảo đảm phát triển bởi Nhà nước XHCN, có đầy đủ những quy luật đặc trưng của nền kinh tế thị trường, có sự quản lý, tác động, điều chỉnh của Nhà nước để bảo đảm công bằng xã hội, vì lợi ích của nhân dân lao động. Cần thiết phải thay thế hoặc diễn giải bằng những từ ngữ khác thích hợp hoặc có kỹ thuật thể hiện để làm rõ tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường như các cụm từ “nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân lao động” hay “nền kinh tế thị trường công bằng lợi ích” hoặc “nền kinh tế thị trường bảo đảm hài hòa các lợi ích”

- Bổ sung các quy định để xác định đúng vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước là người định hướng trên cơ sở tôn trọng các quy luật vận động tự thân của nền kinh tế thị trường, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Không nên hiểu và quy định vai trò Nhà nước theo hướng can thiệp sâu và quá nhiều vào các quan hệ kinh tế, là người lãnh đạo, chỉ huy các hoạt động kinh tế và tham gia làm kinh tế.

- Cần có quy định coi cạnh tranh là nguyên tắc chủ đạo của cơ chế thị trường, của nền kinh tế thị trường. Các chủ thể kinh tế có quyền cạnh tranh bình đẳng với nhau trên cơ sở các quy định của pháp luật.

 4.2 - Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, các loại hình kinh tế, tức là các hình thức pháp nhân kinh tế, phương thức vận động của nó, đồng thời là phương thức tồn tại và vận động của toàn bộ cơ chế kinh tế. Đó là sự thừa nhận của Nhà nước về mặt chính trị, mặt giai cấp của các pháp nhân kinh tế, sự hợp pháp hóa về tổ chức tư cách pháp nhân của các loại hình sản xuất kinh doanh.

 Vấn đề sở hữu quy định trong hiến pháp, cần tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ sở hữu tư nhân, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Phạm vi sở hữu nhà nước, các tài sản thuộc về quốc gia và quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân, của pháp nhân kinh tế trong sử dụng các nguồn tài sản quốc gia. Nhà nước xác lập các chủ thể hoạt động kinh tế và xác lập địa vị pháp lý kinh tế, trước hết là của chính nhà nước.

Tuy nhiên khái niệm sở hữu toàn dân là khái niệm chính trị, rất khó triển khai vào các quan niệm pháp lý và khó xác định ai là người có chủ quyền thực sự. Thực tế cho thấy các nguồn tài nguyên, khoáng sản, tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn kinh tế, không rõ ai là chủ sở hữu đích thực, tạo cơ hội cho khai thác lợi ích nhóm và tư nhân hóa tài sản quốc gia diễn ra trên diện rộng và khá nhanh khi quyền lực được phân cấp từ chính quyền TW xuống các tỉnh, các Tập đoàn kinh tế. Chưa minh định rõ sở hữu công cộng đối với hạ tầng cơ sở (cáp, cột điện, lòng đường, hè đường, tài nguyên). Tài nguyên bị khai thác thiếu định hướng, không vì lợi ích quốc gia và có thể đã bị thao túng bởi những nhóm lợi ích.

    Cần tách bạch ý thức chính trị với cách thiết kế các chế định về sở hữu trong hiến pháp. Chấm dứt phân chia sở hữu thành nhiều loại căn cứ vào ý thức chính trị như hiên nay. Đề nghị không nên tiếp tục sử dụng thuật ngữ sở hữu toàn dân (Điều 57) (Đây là thuật ngữ và khái niệm không có trong Hiến pháp 1946), thay vào đó là khái niệm sở hữu quốc gia, sở hữu nhà nước. Về tài sản nên dùng thuật ngữ tài sản quốc gia, tài sản nhà nước.

Khi nói về đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã không còn xác định: "chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”, mà xác định “nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Như vậy Cương lĩnh đã không đề cập đến chế độ sở hữu và nhất là không sử dụng khái niệm “sở hữu toàn dân”.

- Về tên gọi sở hữu toàn dân, nên thay bằng “sở hữu quốc gia”“sở hữu nhà nước”, khẳng định Nhà nước là người thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu nhà nước. Nhà nước có phân công, phân cấp trong quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Bổ sung quy định về tính phổ biến của sở hữu tư nhân (theo tinh thần Hiến pháp 1946).

 Sở hữu quốc gia được hiểu là một hình thức sở hữu quan trọng: Vốn, ngân quỹ quốc gia, tài sản quốc gia. Hiến pháp cần khẳng định, nhà nước là người thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Nhà nước phân cấp trong quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước, đề cao trách nhiệm giải trình của chủ thể quản lý tài sản nhà nước. Cần cụ thể hoá cơ quan đại diện cho chủ sở hữu. Điều 57, 58 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần ghi nhận sở hữu quốc gia, sở hữu của các cấp chính quyền Tỉnh, huyện, xã.

Về các hình thức sở hữu: nên phân chia theo nguyên tắc thừa nhận các hình thức sở hữu quy định trong Bộ luật dân sự, gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của cộng đồng dân cư, sở hữu chung.

       4.3 - Về các tài sản thuộc các hình thức sở hữu

Cần làm rõ ranh giới các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân:

   Về loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước cần có sự phân định hợp lý hơn và rõ ràng hơn.

     - Phải khẳng định ngân quỹ quốc gia, vốn đầu tư của nhà nước ở trong nước và ngoài nước (kể cả vàng, bạc, kim đá quý và ngoại hối dự trữ, dự phòng, vốn góp, ký cược, ký quỹ ở các tổ chức quốc tế và khu vực) là tài sản nhà nước phải được quản lý và sử dụng theo luật tài chính nhà nước.

      + Tài sản hữu hình và vô hình là báu vật, di sản, kỷ vật. vật kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật, văn hóa, lịch sử, các tài sản phi vật thể... là tài sản quốc gia (địa phương và TW quản lý)

      + Đất đai, khoáng sản, hầm mỏ: là tài sản quốc gia. Nhưng cần quy định phạm vi, ranh giới và không gian của đất (kể cả không gian ngầm, độ cao và độ sâu.) Trong thời gian dài, ở Việt nam chưa thể có khái niệm sở hữu tập thể hay sở hữu tư nhân vể đất đai

      + Rừng núi, sông, hồ bao gồm cả nguồn nước ngầm, nước mặt phần lớn là sở hữu nhà nước, nhưng cần làm rõ hơn thời điểm, thời gian xác định là sở hữu tập thể , sở hữu cá nhân đối với rừng trồng, nguồn lợi biển, nước sông, hồ,

Đối với các tài sản thuộc sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu tư nhân cần có quy định thật rõ về giới hạn, về điều kiện, thời gian và không gian xác định, như rừng trồng, nguồn lợi biển, nước ngầm, không gian và độ sâu của đất, của nước, khoáng sản, tài nguyên đã đưa lên mặt đất, đã tách khỏi đời sống tự nhiên....

    4.4. Về các quy định “Thành phần kinh tế”

     Đề nghị bỏ khái niệm và quy định thành phần kinh tế trong Điều 54 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trên thực tế đã không có sự phân định rạch ròi các thành phần kinh tế trong một đơn vị, một tổ chức hay một không gian cụ thể. Trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay và tương lai, rất nhiều tổ chức kinh tế thuộc đa sở hữu, không thể xác định thuộc thành phần kinh tế cụ thể nào (các Công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn, công ty liên danh…và ngay cả trong các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở). Hơn nữa thuật ngữ thành phần” khá nặng nề và không còn phù hợp trong bối cảnh và môi trường kinh tế mới, kinh tế thị trường, đa sở hữu.  

Các thành phần kinh tế được hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu. Hiện nay, Nhà nước và luật pháp của Nhà nước quy định và thừa nhận 3 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân (sở hữu quốc gia, sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Do đó, việc phân loại các thành phần kinh tế nên theo những tiêu chí về sở hữu. Điều 54 quy định “Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”, nhưng không nói rõ đó là những thành phần kinh tế  nào. Đề nghị bỏ thuật ngữ về các thành phần kinh tế trong Hiến pháp.

Điều 54 cần viết như sau:

1- Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị trường có sự quản lýí và điều tiết của Nhà nước với nhiều hình thức sở hữu. (Bỏ đoạn “nhiều thành phần kinh tế”)

2- Các chủ thể kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng hợp tác, phát triển, bình đẳng và hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh (không cần có thêm tính từ lành mạnh. Lành mạnh hay không là do chính sách và biện pháp quản l‎ý của Nhà nước)

   5 - Chế định Về bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân tổ chức

Quyền sở hữu là một trong những quyền con người. Quyền sở hữu gắn với tài sản. Hiến pháp dự thảo quy định trực tieps về quyền sở hữu tài sản tại các Điều 33, khoản 2 Điều 43, khoản 3 Điều 56, Điều 57, khoản 2, 3 Điều 58. Các quy định đều nêu rõ quyền sở hữu cá nhân, tổ chức được Nhà nước công nhận và bảo hộ.

Điều 33 quy định: 1- Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác, đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57, 58

   2 - Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

So với Hiến pháp 1992 có sự thay đổi rất cơ bản: quyền sở hữu không chỉ áp dụng cho công dân mà cho tất cả mọi người và ghi nhận quyền sở hữu tư nhân được pháp luật bảo hộ. Tất nhiên cần xem lại: Mọi người có bao gồm người nước ngoài cư trú ở Việt Nam không.

Với cụm từ “Vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp” trong Điều 33 là không chính xác về mặt pháp lý. Vốn và tài sản khi đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp đã được định giá và quy ra tiền, gọi chung là vốn góp, vốn chủ sở hữu. Tài sản trong doanh nghiệp không phải là tài sản riêng của người góp vốn. Người đầu tư góp vốn sẽ sở hữu một tỷ lệ vốn nhất định trong tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp. Vì vậy đề nghị bỏ cụm từ “và tài sản khác” trong khoản 1 Điều 33.

Nên quy định thêm trong điều này về quyền sở hữu trí tuệ được Nhà nước bảo hộ (gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp).

6. Chế định về chính quyền địa phương

  Cần quy định rõ hơn về tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Cần quy định thẩm quyền của Chính quyền địa phương trong các quyết định tài chính và ngân sách địa phương. Sửa lại điều 115, 116, 117 theo hướng làm rõ hơn các cấp chính quyền và thẩm quyền của Hội đồng nhân dân. Cần khẳng định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Chương IX: Chính quyền địa phương, không có những chế định rõ về quyền và nghĩa vụ của Hội đồng nhân dân trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân sách, chỉ có một câu rất tổng quát ở đoạn 2, mục 1 điều 116: Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Không nói rõ vấn đề quan trọng của địa phương mà Hội đồng nhân dân quyết định là những vấn đề gì? Bao gồm những nội dung nào liên quan đến tài chính, tiền tệ và ngân sách?

7 - Về chế định hoạt động tài chính, ngân sách nhà nước.

Cần làm rõ, hệ thống tài chính Việt Nam gồm: tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư.

Tài chính nhà nước là một bộ phận hợp thành của tài chính quốc gia, với 3 đặc điểm cơ bản: Thuộc sở hữu quốc gia mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu; phục vụ cho toàn xã hội, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, vì quyền lợi của nhân dân, của toàn thể xã hội; việc quản lý và sử dụng được điều chỉnh bằng luật pháp của nhà nước

Tài chính nhà nước bao gồm trước hết là ngân sách nhà nước mà biểu hiện cụ thể là các quỹ ngân sách nhà nước, sau đó là các quỹ tập trung, quỹ chuyên dùng, tài sản và ngân quỹ của nhà nước, và cuối cùng là hoạt động tín dụng nhà nước, trong đó có ngân quỹ mà nhà nước, chính phủ vay, cho vay và trả nợ tiền vay.. 

Cần chế định, yêu cầu phải xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công khai, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, thực hiện chế độ trách nhiệm của các đơn vị quản lý, sử dụng tài chính nhà nước, ngân quỹ nhà nước; chủ động đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tài chính nhà nước thực chất mang tính chính trị. Tài chính nhà nước cú lịch sử lâu đời với một mục tiêu cơ bản, mang tính xuyên suốt là công khai, minh bạch. Sự  minh bạch, tin cậy về tài chính luôn luôn gắn liền một cách có hệ thống với tính chất của mối quan hệ xã hội. Chính vì vậy, tài chính nhà nước được coi là một công cụ ưu tiên trong việc phân tích và tạo lập các xã hội có tổ chức và đưa ra phương thức hoạt động mới. Quyết định chính sách tài chính quốc gia, chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tài khóa, quyết định ngân sách nhà nước luôn luôn thuộc thẩm quyền, thuộc nghĩa vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực cao nhất của các quốc gia, dù nhà nước đó có thể chế chính trị và tính chất của nhà nước như thế nào.

Một nền tài chính quốc gia lành mạnh là đảm bảo sư kết hợp giữa một bên là quy trình ra quyết định về tài chính nhà nước, về ngân sách nhà nước một cách dân chủ, minh bạch và một bên là cơ chế quản lý nhà nước hợp lý, hiệu quả. Để dảm bảo có dân chủ thực sự  về ngân quỹ, ngân sách nhà nước cũng như nâng cao tính hiệu quả trong quản lý tài chính thì hệ thống tài chính phải công khai , minh bạch, các chủ thể quản lý và chính trị thực sự được đảm bảo thẩm quyền và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Như vậy, công khai, minh bạch, kiểm tra, kiểm soát và trách nhiệm là những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện phương thức quản lý mới trong tài chính hướng tới mục tiêu quản lý tốt thu chi ngân sách, ngân quỹ nhà nước.

 Về các quy định liên quan đến tài chính quốc gia, tài chính nhà nước và thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân dân về Tài chính, ngân sách và tiền tệ.

- Điều 59 quy định về Tài chính nhà nước, Ngân sách nhà nước, trong đó khẳng định:

(1) - Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà  nước và các nguồn tài chính công khác được Nhà nước thống nhất quản lý‎ sử dụng...

(2) - Ngân sách nhà nước là thống nhất gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương. Thu chi ngân sách được thực hiện theo quy định của pháp luật.

 Quy định như vậy vừa không đầy đủ, không hoàn toàn chính xác về khái niệm và nội hàm của các khái niệm về tài chính.

Tài chính không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển, khai thác các nguồn lực; thúc đẩy, duy trì tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước. Với chức năng tập trung, phân phối, giám đốc bằng đồng tiền và tổ chức luân chuyển vốn, nguồn vốn, tài chính là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế gắn với phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ trong quá trình hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế – xã hội đã hoạch định.

Vì vậy, cần có quy định về “tài chính quốc gia” (thuật ngữ này được thừa nhận tại điều 75, khoản 4, khi quy định Quốc hội quyết định chính sách tài chính quốc gia). Nhà nước và nhân dân có nghĩa vụ xây dựng và phát triển nền tài chính quốc gia có tiềm lực mạnh, quản lý và phân phối hợp lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực tài chính quốc gia. Không nên dùng khái niệm tài chính công và tài sản công. Ở Việt Nam, trong thể chế nhà nước của Việt nam, nên quy định các cấu phần của tài chính quốc gia gồm: Tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư. Tài chính nhà nước bao gồm không chỉ Ngân sách nhà nước, quỹ ngân sách Nhà nước, các quỹ tập trung của Nhà nước (gồm cả quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ dự phòng, dự trữ tài chính, các quỹ chuyên dùng...), các khoản đầu tư, vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các khoản nhà nước vay và cho vay, các khoản ký cược, đóng góp tại các tổ chức, các quỹ quốc tế hoặc khu vực...

Hơn nữa, quy định tại Điều 59 đề cập ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ tài chính... lại có câu: Các nguồn tài chính công khác. Vây nguồn tài chính công khác là gì? Tại sao các quy định trên không có chữ tài chính công, đến cuối câu lại có thêm nguồn tài chính công khác. Điều này cần được điều chỉnh và quy định lại rõ hơn.

Khoản 1 Điều 59 nên quy định: “Phát triển và nâng cao tiềm lực tài chính quốc gia. Nhà nước thống nhất quản lý, huy động, phân phối hợp lý và sử dụng đúng pháp luật, hiệu quả, công khai tài chính nhà nước và ngân quỹ quốc gia.”

Quy định như vậy vừa chính xác về thuật ngữ, về nội hàm khái niệm phù hợp Điều 75 khi quy định: Quốc hội quyết định chính sách tài chính quốc gia. Chính sách tài chính quốc gia là chính sách phát triển, huy động, phân phối, phân phối lại và sủ dụng nguồn tài chính quốc gia, bao gồm cả tài chính nhà nước, tài chính các tổ chức kinh tế và tài chính dân cư.

8 - Về thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định tài chính, ngân sách nhà nước

Điều 75 Quy định :

Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

4-Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quy định; sửa đổi bãi bỏ các sắc thuế; quyết định nguyên tắc phân chia các khoan thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước.

  Về quyết định chính sách tài chính quốc gia và chính sách tiền tề quốc gia là hoàn toàn phù hợp. Tµi chÝnh quốc gia và tiền tệ quốc gia là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò của tài chính quốc gia, tiền tệ quốc gia trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở hai mặt:

   - Việc xem xét chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia: cần làm rõ những vấn đề của chính sách tài chính, chính sách tiền tệ quốc gia thuộc thẩm quyền của Quốc hội; những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước.

- Về vị trí độc lập (tương đối) của Ngân hàng nhà nước (NHTW). Trước hết, cần có quy định về Ngân hàng Trung ương hoặc Ngân hàng Trung tâm với chức năng, quyền hạn đủ đảm bảo độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ. Các cơ chế quản lý và kiểm soát các khoản vay nợ nước ngoài và chi tiêu ngoài ngân sách nhà nước cần phải được thiết lập. Chính phủ không nên vay hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Cần có chế định tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của báo chí, công luận, vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý tài sản, ngân quỹ quốc gia. Tăng cường và đa dạng hóa các kênh thông tin, đặc biệt là thông tin cho cơ quan dân cử, giúp làm rõ tác động chính sách, tác động của mối quyết định ngân sách, quyết định đầu tư.

Quy định tại Điều 75 cần ghi rõ hơn: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn: Quyết định chính sách tài chính quốc gia và quyết định chính sách tiền tệ nhà nước.

     Khoản 4 Điều 75 quy định nhiệm vụ và quyền của Quốc hội trong quyết định ngân sách nhà nước hoàn toàn khác so với quy định của Hiến pháp 1992, các hiến pháp trước đó và quy định của Luật ngân sách nhà nước, Luật tổ chức Quốc hội, Hội đồng nhân dân hiện hành. Đây là sự sửa đổi khá căn bản theo quan điểm và tư duy mới về quản lí tài chính, ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chế định này vừa không chính xác, không phù hợp thể chế và nguyên tắc quản lý‎ của Nhà nước Việt Nam. Mâu thuẫn ngay với các chế định của dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này. Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 có các chế định :

   - Điều 2: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiên các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

 -Điều 59 quy định: Ngân sách nhà nước là thống nhất.

 -Điều 74 quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Công hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam.

-Điều 84 quy định: Đại biểu quốc hội là người đại diện cho ‎ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước và của nhân dân ở đơn vị bầu đại biểu (Chứ không chỉ đại diện cho Trung ương).

Vì vậy có thể khẳng định: Tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước phải được quyết định và quản lý‎ theo nguyên tắc thống nhất, chứ không chia cắt về quyền lực quyết định. Quyết định ngân sách nhà nước là thẩm quyền của Quốc hội, chứ Quốc hội không chỉ quyết định ngân sách Trung ương.  Để đảm bảo nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quản lý‎ ngân sách nhà nước, Hiến pháp chế định việc phân bổ ngân sách Trung ương thuộc thẩm quyền của Quốc hội, việc phân bổ ngân sách Địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân các cấp có thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách địa phương trong tổng thể ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Quyết toán ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân phê chuẩn là căn cứ để Quốc hội xem xét và phê chuân Ngân sách Nhà nước (bao gồm cả Ngân sách Trung ương).

 Chế định tại Điều 75 vi phạm nguyên tắc: Nhà nước Việt Nam là thống nhất, Tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất trong quản lý, Quốc hội và Đại biểu Quốc hội là của cả nước, đại diện cho cử tri cả nước, chứ không phải chỉ ở Trung ương... Vì vậy, Qu‎yết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán nhà nước phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

    Để làm rõ thẩm quyền của Quốc hội, xin đề nghị: Điều 75 khoản 4 cần được tách ra làm 2 khoản riêng rẽ và trình bày lại như sau:

     Khoản 4a: Quốc hội quyết định chính sách tài chính Quốc gia, chính sách tài khóa, chính sách tiến tệ quốc gia, quyết định mức nợ quốc gia, nợ chính phủ, quyết định công trình, dự án quan trọng Quốc gia đầu tư từ ngân quỹ nhà nước.

    Khoản 4b: Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, tỷ lệ phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương, ngân sách địa phương; quyết định phân bổ ngân sách Trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.

9 - Về chế định hoạt động kiểm toán nhà nước:

Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) chưa quy định hoạt động và tổ chức của kiểm toán Nhà nước. Trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này có hai Điều quy định về Kiểm toán nhà nước. Điều 75 chương V và điều 122 chương X. Điều 75, khoản 7 quy định: Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng kiểm toán nhà nước. Điều 122 quy định:

1 - Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản l‎ý, sử dụng tài chính, tài sản công.

2 - Tổng kiểm toán là người đứng đầu kiểm toán nhà nước, do Quốc hội bầu, nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán do Luật định.

Tổng kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3 - Tổ chức nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Kiểm toán nhà nước do Luật định.

 Các quy định như vậy đã thể hiện quan điểm phát triển kiểm toán nhà nước thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước thực hiện kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân quỹ nhà nước, tài sản quốc gia, làm trọn vai trò hỗ trợ giám sát, kiểm soát quyền lực, đặc biệt các quyền lực trong huy động, tập trung, phân phối và sử dụng tài chính quốc gia, ngân quỹ nhà nước trong nhà nước pháp quyền. Địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước đã được xác lập trong Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước.

Vị trí của Kiểm toán nhà nước đã được xác lập trong hệ thống chính trị của Nhà nước Việt Nam, trong hệ thống quyền lực và bộ máy công quyền của nhà nước. 

Tại Điều 75 đã chế định: Quốc hội bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Tông kiểm toán nhà nước. Điều 122 không cần nhắc lại chế định này, mà nhắc lại không đầy đủ bằng quy định tại Điều 75.

Cần quy định rõ trách nhiệm và quyền của kiểm toán nhà nước trong quy trình quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, trước hết là các quyết định của Quốc hội, Hội đồng nhân dân về tài chính –ngân sách, đặc biệt là quyết định dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách.

10 - Các ý kiến khác.

- Quy định rõ hơn điều 107 và 112 trong Chương VIII về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân

- Sửa khoản 2 Điều 15: Quyền con người và quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc phòng, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng… Cần làm rõ hơn : Trường hợp cần thiết…

- Chương IV từ điều 69 đến 73 cần thêm quy định đảm bảo trật tự xã hội là sự nghiệp của toàn dân tộc. Bỏ từ Cách mạng sau cụm từ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt nam.

- Quy định rõ hơn các khoản 2, 6, 7 và 9 Điều 75 về nhiệm vụ và quyền của Quốc hội trong giám sát các hoạt động xã hội, bỏ phiếu tín nhiệm, phể chuẩn các điều ước quốc tế, thành lập ủy ban lâm thời, quyết định điều chỉnh địa giới hành chính.

   Tóm lại:

   Đề nghị thiết kế và trình bày lại các điều trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi như sau:

Điều 54:

1- Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị trường có sự quản l‎ý và điều tiết của nhà nước với nhiều hình thức sở hữu.

2- Các chủ thể kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng hợp tác, phát triển, bình đẳng và hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh.

 Điều 59:

1- “Phát triển và nâng cao tiềm lực tài chính quốc gia. Nhà nước thống nhất quản lí, huy động, phân phối hợp lý và sử dụng đúng pháp luật, hiệu quả, công khai tài chính nhà nước và ngân quỹ quốc gia.”

Điều 75:

Khoản 4 cần được tách ra làm 2 khoản riêng rẽ và trình bày lại như sau:

4a: Quốc hội quyết định chính sách tài chính Quốc gia, chính sách tài khóa, chính sách tiến tệ quốc gia, quyết định mức nợ quốc gia, nợ chính phủ, quyết định công trình, dự án quan trọng Quốc gia đầu tư từ ngân quỹ nhà nước.

4b: Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, tỷ lệ phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương, ngân sách địa phương; quyết định phân bổ ngân sách Trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.

Điều 122:

1-   Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm tra, đánh giá việc huy động, phân phối, quản lý và sử dụng tài chính nhà nước, tài sản quốc gia.

2-   Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, có nhiệm kỳ 7 năm.

          Tổng kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác tại ki‎ họp Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp báo cáo kết quả kiểm toán trước Ủy ban Thương vụ Quốc hội. Tổng Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm và quyền tham gia và trình bày kiến tại các phiên họp của quốc hội về kinh tế tài chính.

Các văn bản liên quan