VCCI góp ý Dự thảo Thông tư về hoạt động mua bán hàng hóa qua biên giới của thương nhân

Thứ Tư 11:35 09-12-2015

PHÒNG THƯƠNG MẠI

VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

 

 

Số:         2996          /PTM-PC

V/v:  Ý kiến đối với Dự thảo Thông tư về
hoạt động mua bán hàng hóa qua biên giới của thương nhân

CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 


Hà Nội, ngày  20   tháng
11   năm 2015

            Kính gửi:       Vụ Thương mại Biên giới và Miền
núi – Bộ Công thương

   Trả lời Công văn
số 11536/BCT-BGMN ngày 09/11/2015 của Quý Cơ quan về việc lấy ý kiến với Dự thảo
Thông tư Hướng dẫn thực hiện hoạt động tại Quyết định 52/2015/QĐ-TTg về việc quản
lý hoạt động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới (sau đây gọi
tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến sau
đây:

Là văn bản hướng dẫn thi hành Quyết định 52/2015/QĐ-TTg
(sau đây gọi là Quyết định 52), Dự thảo có nhiệm vụ quy định chi tiết và đảm bảo
khả năng thi hành trên thực tế các quy định tại Quyết định nói trên. Vì
vậy, các nội dung tại Dự thảo cần:


Tuân thủ đầy đủ, không vượt ra ngoài phạm
vi các quy định tại Quyết định 52;


Bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng trong
các quy định (đặc biệt là về các trình tự, thủ tục liên quan).


soát Dự thảo cho thấy một số điều khoản còn chưa đáp ứng được các yêu cầu nói
trên và vì vậy cần được cân nhắc điều chỉnh, sửa đổi. Cụ thể:

1.
Về Thương nhân mua bán hàng hóa qua
biên giới (Điều 3 Dự thảo)

(i)    Loại thương nhân được quyền mua bán
hàng hóa qua biên giới

Điều 3.1 Dự thảo quy định
chỉ có 02 loại thương nhân được quyền mua bán hàng hóa qua biên giới, bao gồm doanh
nghiệp Việt Nam
hộ kinh doanh thuộc các tỉnh biên giới có đăng ký
kinh doanh.

Tuy nhiên, phạm vi 02 loại
thương nhân như trong Dự thảo dường như là chưa thống nhất (hẹp hơn hoặc rộng
hơn) với quy định về các loại thương nhân được mua bán hàng hóa qua biên giới
trong Điều 5 Quyết định 52, cụ thể:

Theo Điều 5.1 Quyết định
52 thì “Thương nhân Việt Nam không có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
(dưới đây gọi tắt là thương nhân) được thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua
biên giới
” (cũng theo quy định tại điều khoản này thì việc giới hạn thương
nhân chỉ áp dụng cho trường hợp cửa khẩu phụ, lối mở mà thôi).

Kết hợp với định nghĩa về
thương nhân tại Điều 6.1 Luật Thương mại thì quy định tại Điều 5.1 nói trên được
hiểu là mọi thương nhân không có vốn đầu tư nước ngoài đều có thể thực hiện
hoạt động mua bán hàng hóa qua biên giới
, bao gồm cả:


Các thương nhân là tổ chức kinh tế Việt Nam không đăng ký dưới hình thức
doanh nghiệp (ví dụ các hợp tác xã…)


Các thương nhân là cá nhân Việt Nam có đăng ký kinh doanh


Các hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh ở các địa phương trên lãnh thổ
Việt Nam (kể cả các tỉnh không phải tỉnh biên giới).

Dự thảo hiện lại đang loại
trừ tất cả các trường hợp nói trên và vì vậy là hẹp hơn và chưa phù hợp với Điều
5.1 Quyết định 52.

Ngoài ra, khái niệm
“doanh nghiệp Việt Nam” trong Dự thảo là chưa chuẩn xác (bởi theo Điều 4.9 Luật
Doanh nghiệp 2014 thì “doanh nghiệp Việt Nam” bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam, và vì vậy không phù hợp với Điều 5.2
Quyết định 52).

Vì vậy, đề nghị Ban soạn
thảo
điều chỉnh lại Khoản 1 Điều 3 theo hướng:


Liệt kê đầy đủ các loại thương nhân không có vốn đầu tư nước ngoài theo
pháp luật liên quan của Việt Nam (thương mại, doanh nghiệp, đầu tư, hợp tác
xã…)


Bỏ hạn chế tại điểm b về việc hộ kinh doanh phải đăng ký tại tỉnh biên
giới.

2.
Về thương nhân được mua bán hàng
hóa qua biên giới tại các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới

Điều
3.3 và 3.4 Dự thảo quy định chi tiết Điều 5.1 Quyết định 52 (“Căn cứ điều kiện
hạ tầng kỹ thuật tại khu vực cửa khẩu phụ, lối mở biên giới, Ủy ban nhân dân tỉnh
biên giới chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương lựa chọn thương nhân đáp ứng đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật để thực hiện mua bán hàng hóa qua cửa
khẩu phụ, lối mở biên giới”).

Tuy
nhiên, dường như nội dung các điều khoản này chưa làm rõ được quy định tại Điều
52 và vì vậy chưa đảm bảo tính minh bạch và đầy đủ để có thể áp dụng được thống
nhất trên thực tế. Cụ thể:

(i) Về thủ tục đăng ký của thương nhân
(Điều 3.3)

Dự
thảo quy định về việc đăng ký của thương nhân để thực hiện hoạt động mua bán
hàng hóa qua cửa khẩu phụ, lối mở. Tuy nhiên, dường như các quy định này còn rất
sơ sài và thiếu nhiều yếu tố, ví dụ:


Dự thảo chưa đề cập tới các điều kiện để
lựa chọn thương nhân? Và vì vậy cũng không rõ Cơ quan có thẩm quyền (Sở Công
thương, Chủ tịch UBND tỉnh biên giới) dựa vào tiêu chí nào để phê duyệt hay
không phê duyệt việc đưa một thương nhân vào Danh sách được phép mua bán qua cửa
khẩu phụ, lối mở?


Dự thảo không đề cập tới việc Ủy ban sẽ
phối hợp với Bộ Công thương như thế nào trong việc lựa chọn này? (trong khi về
mặt logic thì Thông tư này chính là thể hiện vai trò của Bộ Công thương trong
việc này thông qua việc quy định các điều kiện/tiêu chí lựa chọn thương nhân gắn
với điều kiện hạ tầng kỹ thuật của cửa khẩu/lối mở; còn UBND trên cơ sở điều kiện
hạ tầng kỹ thuật thực tế của tỉnh mình sẽ áp các điều kiện/tiêu chí tương ứng
khi phê duyệt Danh sách);


Liên quan tới thủ tục đăng ký của thương
nhân: Đây thực chất là một loại giấy phép (vì chủ thể đăng ký phải nhận được sự
chấp thuận/cho phép của cơ quan có thẩm quyền chứ không chỉ là đăng ký tự động
có tính chất thông báo). Tuy nhiên, Điều 3.3 Dự thảo về thủ tục này lại chỉ quy
định về việc thương nhân phải đăng ký và việc phê duyệt Danh sách (chính xác phải
là việc phê duyệt đăng ký) phải được cơ quan có thẩm quyền thực hiện trong thời
hạn 05 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp
lệ. Nói cách khác, toàn bộ các nội dung quan trọng khác trong thủ tục cấp
phép đã không được nêu trong Dự thảo, ví dụ:

+
Mẫu đăng ký

+
Thời gian đăng ký (khi nào muốn là có thể đăng ký hay chỉ có thể định kỳ đăng
ký theo đợt? Nếu theo đợt thì đợt đó là thời gian nào?)

+
Hồ sơ đăng ký bao gồm các giấy tờ gì, phục vụ mục đích xem xét điều kiện nào của
thương nhân? (Nếu không có quy định này thì sẽ không rõ “hồ sơ hợp lệ” là như
thế nào)

+
Tiêu chí để cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hay không chấp thuận đăng ký là
gì?

+
Trường hợp không chấp nhận cơ quan có thẩm quyền phải phản hồi như thế nào? (văn
bản từ chối, nêu rõ lý do từ chối)

+
Trường hợp chấp nhận thì chấp nhận theo từng Đơn đăng ký của thương nhân và cấp
giấy đăng ký cho thương nhân đó (việc đưa tên thương nhân vào Danh sách thương
nhân đủ điều kiện chỉ là hoạt động hành chính) hay mỗi khi chấp thuận đăng ký của
thương nhân lại ban hành Quyết định sửa đổi Danh sách thương nhân đủ điều kiện
(cách thức này chỉ thích hợp với trường hợp Đăng ký theo đợt định kỳ và không
thể thực hiện đồng thời với quy định về thời hạn 05 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hợp
lệ).


vậy, đề nghị Ban soạn thảo:


Quy định cụ thể các điều kiện để chấp nhận
hay không chấp nhận thương nhân (và phải gắn với các vấn đề về cơ sở hạ tầng kỹ
thuật của cửa khẩu phụ, lối mòn)


Bổ sung các nội dung liên quan tới thủ tục
đăng ký nói trên;


Làm rõ hình thức chấp thuận đăng ký (là
chấp thuận cho từng chủ thể đăng ký hay cho cả Danh mục?) và thời điểm đăng ký
(tự do hay theo từng đợt định kỳ?)

(ii)
Liên
quan tới Danh sách thương nhân đủ điều kiện (Điều 3.4)

Dự thảo quy định cập nhật
và công khai Danh sách thương nhân đủ điều kiện.

Từ góc độ tính chất, nếu theo quy định tại
Điều 3.4b về việc “Danh sách thương nhân phải được cập nhật (thêm và bớt
theo điều kiện hạ tầng của từng cửa khẩu phụ, lối mở)…
” thì có thể hiểu rằng
đây chính là hình thức “hạn ngạch” về số lượng thương nhân. Điều này có nghĩa
là các thương nhân có điều kiện như nhau nhưng có thể có thương nhân được vào
Danh sách, có thương nhân không được và vì vậy cách thức lựa chọn công bằng nhất
chỉ có thể là “first comes, first served” – ai đăng ký trước thì được. Do đó vấn
đề về thời điểm đăng ký của thương nhân cũng như cách thức cho đăng ký (tùy ý
hay theo đợt) là rất quan trọng.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn
thảo
quy định rõ về vấn đề thời điểm và trình tự ưu tiên đăng ký Danh sách
thương nhân này.

Từ góc độ minh bạch, bên cạnh vấn đề bất cập
về thời điểm cập nhật (như nêu ở trên), một số nội dung quan trọng khác về Danh
sách này cũng chưa được làm rõ trong Dự thảo và do đó có thể gây ra nhiều lúng
túng, vướng mắc trong triển khai:


Ai chịu trách nhiệm thực hiện cập nhật và công khai Danh sách này?


Nếu việc cấp đăng ký không theo định kỳ mà theo từng Đơn đăng ký thì khoảng
thời gian danh sách thương nhân cập nhật là thế nào, một lần; và/hoặc (iii) khoảng
thời gian tiến hành cập nhật danh sách thương nhân kể từ khi có thay đổi.


Trường hợp Danh sách chưa cập nhật so với thực tế cấp đăng ký thì xử lý
thế nào?


Giá trị của Danh sách này là gì? (nếu tên thương nhân chưa được cập nhật
trong Danh sách thì thương nhân có quyền mua bán không? Khi thương nhân thực hiện
mua bán thì Cơ quan có thẩm quyền tại cửa khẩu phụ, lối mở có kiểm tra Danh
sách này không?)

Vì vậy, đề nghị
Ban soạn thảo
bổ sung vào Dự thảo các nội dung còn thiếu nói trên.

3.      Về Hàng hóa mua bán qua biên giới của thương nhân
(Điều 4 Dự thảo)

(i) Về
loại hàng hóa được xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu phụ, lối mở

Khoản
1 Điều 6 Quyết định 52 quy định  mọi hàng
hóa mua bán qua biên giới của thương nhân phải đáp ứng các quy định tại Nghị định
187[1].
Tuy nhiên, Dự thảo lại chỉ quy định rõ về điều kiện này đối với trường hợp hàng
hóa mua bán qua cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính, còn đối với hàng hóa xuất khẩu
qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới thì lại chưa quy định rõ về điều kiện này.


vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về điều kiện hàng hóa xuất
khẩu qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới phải các quy định tại Nghị định 187
(theo hình thức bổ sung thêm 01 điều khoản tương tự khoản 1 Điều 4 hoặc dẫn chiếu
tới quy định của khoản 1 Điều 4, ví dụ “Ngoài
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, hàng hóa xuất khẩu/nhập khẩu qua cửa
khẩu phụ, lối mở biên giới còn phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:…
”.

(ii)
Về
thủ tục để được “sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Công thương” khi xuất khẩu, nhập
khẩu một số loại hàng hóa qua cửa khẩu phụ, lối mở

Điểm
b khoản 2 và khoản 3 Điều 4 quy định về việc cho phép xuất, nhập khẩu theo từng
trường hợp đối với các hàng hóa nhất định và đều phải có “sự đồng ý bằng văn bản
của Bộ Công thương”. Điều này được hiểu là đối với việc xuất nhập khẩu các loại
hàng hóa này, mỗi lần xuất, nhập khẩu đều phải được Bộ Công thương cấp phép.

Quy
định này dường như là chưa phù hợp, bởi:


Theo Điều 6.2 Quyết định 52 thì “Bộ Công
Thương hướng dẫn hàng hóa mua bán qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới của thương
nhân trong từng thời kỳ sau khi trao đổi với Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan liên
quan và Ủy ban nhân dân tỉnh biên giới” – Như vậy, Bộ Công thương được giao hướng
dẫn chung (ví dụ xây dựng Phụ lục I của Thông tư này hoặc liệt kê các loại hàng
hóa như trong điểm b khoản 2 Điều 4) chứ không phải được trao quyền cấp phép
cho từng trường hợp?


Ngay cả khi Bộ Công thương có thẩm quyền
cấp phép (“văn bản đồng ý”) cho từng trường hợp thì quy định như tại Dự thảo
cũng là chưa rõ ràng: Bộ Công thương căn cứ vào tiêu chí nào để đồng ý hay
không đồng ý? Thương nhân phải thực hiện thủ tục nào, hồ sơ gì, gửi đến ai để
có được “sự đồng ý bằng văn bản” này của Bộ Công thương?


vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét làm rõ tính chất của thủ tục này (áp
dụng cho từng trường hợp xuất, nhập khẩu hay là cho chung tất cả các trường hợp?)
và nếu là thủ tục cấp phép cho từng trường hợp (lô hàng) và giải trình được thẩm
quyền của Bộ Công thương thì cần bổ sung các quy định cụ thể để làm rõ điều kiện,
trình tự, thủ tục thực hiện, hiệu lực của việc cấp phép trên.

(iii) Về trình tự, thủ tục chung đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa khẩu phụ, lối mở

Khoản
4 Điều 4 quy định giao Chủ tịch UBND tỉnh quy định về trình tự, thủ tục xuất nhập
khẩu hàng hóa tại các cửa khẩu phụ, lối mở.

Quy
định này dường như chưa phù hợp với quy định tại Điều 6.2 Quyết định 52 theo đó
Bộ Công thương phải là đầu mối hướng dẫn (quy định) về vấn đề này, UBND tỉnh chỉ
là đơn vị được tham vấn, trao đổi mà thôi).

Hơn
nữa, việc Bộ Công thương quy định về trình tự, thủ tục chung trong Thông tư
này, còn các vấn đề cụ thể hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương (ví
dụ về thời gian mở cửa, về cơ quan có thẩm quyền cụ thể…) sẽ tạo ra sự thống nhất
trong cơ chế quản lý Nhà nước về vấn đề này cũng như tạo ra sự minh bạch cho
quá trình thi hành của các thương nhân.


vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định ngay tại Thông tư này các vấn đề về
trình tự, thủ tục cơ bản đối với xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu phụ, lối
mở.

4.
Về Cửa khẩu biên giới đất liền thực hiện mua bán hàng hóa qua biên giới của
thương nhân (Điều 5)

Khoản
3 Điều 5 Dự thảo có quy định về trách nhiệm thông báo công khai Danh mục các cửa
khẩu phụ, lối mở biên giới của Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, phương thức thông
báo công khai cho doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan lại không được làm rõ.


vậy, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ hơn về phương thức và thời gian tiến
hành thông báo công khai để các tỉnh thống nhất thực hiện và thuận lợi cho
doanh nghiệp.

5.
Về Hình thức thỏa thuận trong mua
bán hàng hóa qua biên giới (Điều 6 Dự thảo)

(i)
Về
hình thức thỏa thuận trong mua bán hàng hóa qua biên giới của thương nhân

Theo
Điều 9.2 Quyết định 52 thì hoạt động mua bán qua biên giới của thương nhân có
thể được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản hoặc bảng kê mua bán hàng hóa qua biên giới. Tuy nhiên, cách
trình bày của Điều 6 Dự thảo chưa làm rõ được điều này (thậm chí có thể khiến
người đọc hiểu nhầm là phải có cả hợp đồng bằng văn bản bảng kê mua bán).

            Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh
lại cách trình bày theo hướng tương tự như Điều 9 Quyết định 52 (Dự thảo chỉ
làm rõ thêm về Bảng kê mà thôi).

(ii)    Về Bảng kê mua bán

Về
cơ bản thì Bảng kê mua bán hàng hóa với nội dung như tại Phụ lục II Dự thảo đã
bám sát các nội dung quy định tại Điều 9.2 Quyết định 52.

Tuy
nhiên, cần chú ý rằng về mặt nguyên tắc, liên quan tới nội dung giao dịch (hợp
đồng và các giao dịch khác), cả Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đều đã thống
nhất quan điểm tiếp cận tôn trọng tối đa quyền tự thỏa thuận của các bên, và do
đó đã bỏ các quy định về các nội dung bắt buộc phải có của hợp đồng. Bản kê chỉ
là một hình thức đơn giản của hợp đồng, và về pháp lý cũng phải tuân thủ ít nhất
các nguyên tắc áp dụng đối với hợp đồng, trong đó có việc không bắt buộc các điều
khoản như giá cả, số lượng, phẩm chất quy cách, phương thức thanh toán…


vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc lại việc quy định các nội dung trong
Mẫu Bảng kê, theo hướng cho phép thương nhân có thể bỏ qua một số nội dung (ví
dụ có Footnote tại Mẫu nêu rõ thương nhân chỉ bắt buộc phải điền vào các nội
dung để định danh thương nhân và giao dịch như Tên thương nhân, mã số thuế, Tên
hàng, các nội dung khác.

6.      Về trách nhiệm báo cáo của UBND tỉnh
(Điều 7 Dự thảo)

Điều
7 Dự thảo quy định về trách nhiệm báo cáo của UBND tỉnh với Bộ Công thương về
hoạt động mua bán hàng hóa của thương nhân nhưng lại chỉ nêu về thời gian báo
cáo (định kỳ theo tháng, quý, năm; đột xuất theo yêu cầu) mà không nêu cụ thể
các nội dung báo cáo.


vậy, đề nghị Ban soạn thảo làm rõ các nội dung báo cáo để UBND thuận tiện
trong việc tập hợp, trích xuất thông tin và thực hiện báo cáo và cũng để Bộ có
thể quản lý thống nhất trên phạm vi toàn quốc về vấn đề này.

7.      Về một số nội dung khác

Một
số quy định trong Dự thảo chưa thật chính xác về văn phong và thuật ngữ, đề nghị
Ban soạn thảo rà soát để điều chỉnh, ví dụ:


Thuật ngữ
Danh sách thương nhân

Tại
điểm b Khoản 3, và Khoản 4 Điều 3 Dự thảo, có một loạt các thuật ngữ để chỉ một
nội dung như (i) danh sách thương nhân đủ điều kiện hoạt động mua bán qua
biên giới
, (ii)danh sách thương nhân được thực hiện mua bán háng hóa qua
các của khẩu phụ, lối mở biên giới
, (iii) danh sách thương nhân mua bán
hàng hóa qua biên giới
, và (iv) danh sách thương nhân.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn
thảo
thống nhất cách sử dụng thuật ngữ trong trường hợp
này.


Tính quy phạm trong quy định

Một
số quy định trong Dự thảo có văn phong chưa phù hợp, không thể hiện rõ quy phạm
(ai, phải làm gì?) đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại, ví dụ:


Điều 4.1: Đề nghị sửa lại như sau
“Hàng hóa mua bán thương nhân mua bán qua cửa khẩu chính, cửa khẩu quốc tế phải đáp ứng các quy định tại Nghị
định 187…”


Điều 4.2a: Quy định này không mang tính
quy phạm, chỉ mang tính chính sách, không có ý nghĩa về thực thi, vì vậy đề
nghị bỏ


Điều 4.2b: Tất cả các thuật ngữ “tài
nguyên, khoáng sản, mặt hàng bình ổn giá, cân đối cung cầu, kinh doanh có điều
kiện, hàng hóa có nguồn gốc từ nước thứ ba” đều không phải là thuật ngữ sử dụng
ổn định, thống nhất về nghĩa và phạm vi. Vì vậy đề nghị dẫn chiếu tới
các văn bản cụ thể quy định về những loại hàng hóa này.


Điều 5.1: Quy định này không rõ, vì về
nguyên tắc mọi hoạt động đều phải “tuân thủ pháp luật hiện hành” hết, chứ không
phải chỉ các hoạt động tại các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu. Vì vậy đề nghị
Ban soạn thảo
điều chỉnh làm rõ quy định tại đây.

Trên
đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với
Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua biên giới của
thương nhân. Rất mong Quý Cơ quan cân nhắc, điều chỉnh để hoàn thiện Dự thảo.

Trân trọng ./.

Nơi
nhận:

Như trên

– Lưu
VT, PC

TL. CHỦ TỊCH

KT. TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ

PHÓ TRƯỞNG BAN

 (đã ký)

Nguyễn Thị Thu Trang

 


[1] Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày
20 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công
và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài (“Nghị định 187”)