Theo dõi (0)

DỰ THẢO LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Ngày đăng: 00:25 21-03-2011 | 1754 lượt xem

Cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo

Bộ Tư pháp

Trạng thái

Đã xong

Đối tượng chịu tác động

N/A,

Phạm vi điều chỉnh

Tóm lược dự thảo

QUỐC HỘI

Luật số: /20… /QH1…

Dự thảo
15/03/2011

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


Hà Nội, ngày tháng năm 201…

LUẬT

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;

Quốc hội ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.

PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về xử lý vi phạm hành chính, bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật về trật tự quản lý hành chính nhà nước của cá nhân, tổ chức, có lỗi, không phải là tội phạm và theo qui định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

2. Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với đối tượng thực hiện vi phạm hành chính theo thủ tục quy định tại Luật này.

3. Biện pháp xử lý hành chính bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

4. Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là việc áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục, phòng ngừa thay thế cho việc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính hoặc các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính nhằm giúp họ nhận thấy được và sửa chữa sai lầm khắc phục hậu quả vi phạm.

5. Tái phạm là việc người vi phạm đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành của quyết định xử phạt mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt.

6. Vi phạm nhiều lần là trường hợp thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã vi phạm nhưng chưa bị xử phạt và chưa hết thời hiệu xử phạt.

7. Vi phạm có tổ chức là trường hợp cá nhân, tổ chức câu kết với cá nhân, tổ chức khác để cố ý cùng thực hiện vi phạm hành chính.

8. Giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thể bị tước quyền sử dụng là giấy tờ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để tổ chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động, hành nghề hoặc sử dụng công cụ, phương tiện. Giấy phép, chứng chỉ hành nghề nêu trên không bao gồm giấy đăng ký kinh doanh, các loại chứng chỉ gắn với nhân thân người được cấp không có mục đích cho phép hành nghề.

9. Tổ chức là đối tượng bị xử phạt bao gồm: pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự, tổ hợp tác và hộ gia đình.

10. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

11. Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

12. Sự kiện bất ngờ là trường hợp người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.

13. Không có năng lực trách nhiệm hành chính là trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Điều 3. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính

1. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

a) Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và bị xử phạt, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

b) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để theo đúng nguyên tắc, thẩm quyền và thủ tục do Luật này quy định.

c) Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo nguyên tắc công khai, khách quan, bảo đảm công bằng, bình đẳng, tôn trọng quyền giải trình của cá nhân, tổ chức.

d) Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có vi phạm hành chính do pháp luật quy định.

Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính một lần.

Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt.

Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.

đ) Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác định sự thật của vụ việc vi phạm một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Người bị xử phạt có quyền chứng minh là mình không có lỗi.

e) Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp và mức xử phạt thích hợp.

2. Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

a) Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc một trong các đối tượng được quy định tại các điều 97, 99, 101 và Điều 103 của Luật này (PA1)/các Điều 95(2), 95(8) và Điều 95(22) của Luật này (PA 2);

b) Các nguyên tắc quy định tại điểm b, c, đ và e khoản 1 Điều này.

Điều 4. Thẩm quyền quy định xử phạt vi phạm hành chính

1. Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; quy định chế độ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh.[2]

2. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp không được quy định hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.

Điều 5. Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính

1. Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.

Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với các công dân khác; trong trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục đích quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh kỷ luật;

b) Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý của người đó theo quy định của pháp luật;

c) Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ Việt Nam, giàn khoan của Việt Nam ở nước ngoài thì bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

2. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là cá nhân được quy định tại các điều 97, 99, 101 và Điều 103 của Luật này (PA1)/các Điều 95(2), 95(8) và Điều 95(22) của Luật này (PA 2);

Các biện pháp xử lý hành chính quy định tại Luật này không áp dụng đối với cá nhân là người nước ngoài.

Điều 6. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính

1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:

a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là một năm; đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở, đất đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh hoặc vi phạm hành chính là hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả thì thời hiệu là hai năm.

b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được xác định như sau:

Đối với vi phạm hành chính đã được thực hiện xong thì thời hiệu được tính từ thời điểm hành vi vi phạm kết thúc;

Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.

Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án hoặc đối tượng không bị khởi tố bị can mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ, quyết định chuyển đối tượng để xử phạt hành chính và hồ sơ vụ vi phạm.

c) Trong thời hạn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà cá nhân, tổ chức lại thực hiện vi phạm hành chính mới trong cùng lĩnh vực trước đây đã vi phạm hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này; thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt;

d) Nếu quá các thời hạn quy định tại các điểm a, b, c khoản này thì không áp dụng hình thức xử phạt nhưng vẫn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này và bị tịch thu sung quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành;

2. Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính được quy định như sau:

a) Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là một năm kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 97; là sáu tháng kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 2; là sáu tháng kể từ khi thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 và 4 Điều 97 của Luật này (PA 1)/ Điều 95(2) của Luật này(PA 2);

b) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là sáu tháng kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 hoặc kể từ khi thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 99 của Luật này (PA 1)/Điều 95(8) của Luật này (PA2);

c) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là một năm, kể từ khi thực hiện lần cuối một trong các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này (PA 1)/ Điều 95(22) của Luật này (PA 2);

d) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là sáu tháng kể từ khi thực hiện lần cuối hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 103 của Luật này (PA 1). (PA 2. Bỏ quy định này)

Nếu sau ba tháng kể từ khi thực hiện lần cuối hành vi vi phạm mà người vi phạm có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật thì không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh.

3. Người có thẩm quyền xử phạt hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nếu có lỗi trong việc để quá thời hiệu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bị xử lý theo quy định tại Điều 15 của Luật này.

Điều 7. Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính

1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

2. Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn hai năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử lý hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử lý mà không thực hiện hành vi đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó thì được coi như chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Điều 8. Tình tiết giảm nhẹ

1. Những tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ:

a) Người vi phạm hành chính đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;

b) Người vi phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi;

c) Vi phạm trong tình trạng bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra;

d) Vi phạm do bị ép buộc hoặc bị lệ thuộc về vật chất hoặc tinh thần;

đ) Người vi phạm là phụ nữ có thai, người già yếu; người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

e) Vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;

g) Vi phạm do trình độ lạc hậu.

2. Ngoài những tình tiết quy định tại khoản 1 Điều này, Chính phủ có thể quy định những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong các văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính.

Điều 9. Tình tiết tăng nặng

1. Chỉ những tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng:

a) Vi phạm có tổ chức;

b) Vi phạm nhiều lần;

c) Tái phạm;

d) Xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần vi phạm;

đ) Sử dụng người biết rõ là đang bị tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi để vi phạm;

e) Vi phạm có tính chất côn đồ, vi phạm trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác;

g) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm;

h) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để vi phạm;

i) Vi phạm trong thời gian đang chấp hành hình phạt của bản án hình sự hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính;

k) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó;

l) Sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm hành chính.

2. Những tình tiết quy định tại khoản 1 Điều này đã được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

Điều 10. Những trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính

1. Không xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp sau đây:

a) Vi phạm trong tình thế cấp thiết;

b) Vi phạm do phòng vệ chính đáng;

c) Vi phạm do sự kiện bất ngờ;

d) Đối tượng vi phạm không có năng lực trách nhiệm hành chính;

đ) Hành vi vi phạm hành chính của cán bộ, công chức liên quan trực tiếp đến công vụ được giao. Việc xử lý đối với hành vi vi phạm của họ được thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

2. Đối với trường hợp quy định tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này thì người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả và tịch thu sung công quỹ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.

Điều 11. Những hành vi bị nghiêm cấm

1. Giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử phạt vi phạm hành chính.

2. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, sách nhiễu, dung túng, bao che khi xử phạt hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

3. Ban hành trái thẩm quyền các văn bản qui định về hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và các biện pháp xử lý hành chính.

4. Không xử phạt vi phạm hành chính hoặc không áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; xử phạt vi phạm hành chính hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính không kịp thời, không nghiêm minh, không đúng thẩm quyền, thủ tục, đối tượng quy định tại Luật này.

5. Áp dụng các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với từng hành vi vi phạm hành chính.

6. Chống đối, trốn tránh, trì hoãn hoặc cản trở chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

7. Giả mạo, làm sai lệch hồ sơ vụ vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

8. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị xử phạt vi phạm hành chính, người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

9. Kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

10. Sử dụng tiền thu được từ xử phạt vi phạm hành chính hoặc từ bán tang vật, phương tiện bị tịch thu để khen thưởng, hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan, tổ chức xử lý vi phạm hành chính.

Điều 12. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra

Việc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.

Điều 13. Trách nhiệm đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính

1. Cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục thành viên thuộc cơ quan, tổ chức mình về ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, các quy tắc của cuộc sống xã hội, kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân, điều kiện gây ra vi phạm hành chính trong cơ quan, tổ chức mình.

2. Khi phát hiện có vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm xử lý vi phạm đó theo đúng quy định của pháp luật.

3. Công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố cáo và đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính.

4. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật trong xử lý vi phạm hành chính.

Điều 14. Khiếu nại, tố cáo và khởi kiện trong xử lý vi phạm hành chính

1. Cá nhân, tổ chức bị xử lý vi phạm hành chính hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại, tố cáo về việc xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

2. Cá nhân, tổ chức bị xử lý vi phạm hành chính hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khởi kiện đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Điều 15. Xử lý vi phạm đối với người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính

Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Điều 16. Trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, báo cáo, thống kê về xử lý vi phạm hành chính

1. Chính phủ chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

2. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

a) Theo dõi, kiểm tra và tổng hợp báo cáo tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

b) Thống kê và xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính.

3. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo định kỳ hoặc theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền về tình hình và kết quả việc xử lý vi phạm hành chính của cơ quan, tổ chức mình.

Điều 17. Trách nhiệm kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính

1. Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc xử lý vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình, kịp thời xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

2. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm:

a) Thường xuyên kiểm tra việc xử lý vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình.

b) Xử lý kỷ luật đối với người có sai phạm trong xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi quản lý của mình.

c) Giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo trong xử lý vi phạm hành chính trong ngành, lĩnh vực mình phụ trách theo quy định của pháp luật.

d) Trường hợp người có thẩm quyền phát hiện quyết định xử phạt hoặc quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót thì phải kịp thời xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định và ban hành quyết định mới.

Đối với trường hợp đã ra quyết định xử phạt nhưng chưa thi hành xong quyết định, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát có thẩm quyền để kiến nghị khởi tố vụ án hình sự; trường hợp quyết định xử phạt đã thi hành xong thì người đã ra quyết định xử phạt phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát có thẩm quyền. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có quyết định khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển toàn bộ tang vật, phương tiện và tài liệu về việc thi hành quyết định xử phạt cho cơ quan tố tụng hình sự.

Điều 18. Giám sát công tác xử lý vi phạm hành chính.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật trong xử lý vi phạm hành chính.

Điều 19. Hiệu lực của Luật xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi vi phạm hành chính ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Công dân, tổ chức vi phạm pháp luật hành chính của Việt Nam ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật này.

...

Lĩnh vực liên quan

Phiên bản 1

Dự thảo tờ trình Chính phủ về Luật xử lý vi phạm hành chính

Ngày nhập

21/03/2011

Đã xem

1754 lượt xem

Dự thảo Luật xử lý vi phạm hành chính 15/03/2011

Ngày nhập

21/03/2011

Đã xem

1754 lượt xem

Công văn đề nghị góp ý dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính

Ngày nhập

21/03/2011

Đã xem

1754 lượt xem

Thông tin tài liệu

Số lượng file 3

Cơ quan soạn thảo Bộ Tư pháp

Loại tài liệu Luật

Đăng nhập để theo dõi dự thảo

Ý kiến của VCCI

  • Hiện tại, VCCI chưa có ý kiến về văn bản này. Vui lòng đăng ký theo dõi dự thảo để nhận thông tin khi VCCI có ý kiến.

Ý kiến về dự thảo ( 0 ý kiến )

Văn bản vui lòng gửi tới địa chỉ (có thể gửi qua fax hoặc email):
Ban pháp chế VCCI - số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 024 3577 0632 / 024 3577 2002 - số máy lẻ : 355. Fax: 024 3577 1459.
Email: xdphapluat@vcci.com.vn / xdphapluat.vcci@gmail.com