DỰ THẢO LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Ngày đăng: 13:36 26-05-2009 | 2251 lượt xem
Cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo
Hội Luật gia Việt Nam
Trạng thái
Đã xong
Đối tượng chịu tác động
N/A,
Phạm vi điều chỉnh
Tóm lược dự thảo
LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Dự thảo (ngày 30/4/2009)
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các bên giải quyết tranh chấp nhanh chóng, công bằng, hiệu quả và thuận lợi;
Luật này quy định về trọng tài thương mại.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về thẩm quyền của trọng tài, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên và tố tụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp theo sự thoả thuận của các bên.
Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài
1. Tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng có thể được giải quyết bằng trọng tài.
2. Các tranh chấp sau đây không thuộc thẩm quyền của trọng tài:
a. Tranh chấp liên quan đến các quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình.
b. Tranh chấp liên quan đến việc phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
c. Những trường hợp pháp luật có liên quan quy định.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Trọng tài là phương thức giải quyết các tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo thủ tục được quy định tại Luật này.
2. Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên nhằm giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh giữa các bên.
3. Các bên tranh chấp là bất kỳ thể nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước nào có quyền thỏa thuận về trọng tài.
4. Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ Luật dân sự.
5. Trọng tài viên là người có đủ các điều kiện quy định tại Điều 18 của Luật này, có tên trong danh sách của tổ chức trọng tài, hoặc được các bên chọn hoặc được tổ chức trọng tài hoặc tòa án có thẩm quyền chỉ định để giải quyết vụ tranh chấp.
6. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo trình tự, thủ tục do họ thoả thuận.
7. Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại một Trung tâm Trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài.
8. Toà án có thẩm quyền là toà án quy định tại điều 9 của Luật này.
9. Nguyên đơn bao gồm một hoặc nhiều nguyên đơn.
10. Bị đơn bao gồm một hoặc nhiều bị đơn.
Điều 4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
1. Khi xét xử tranh chấp trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên và quy định của pháp luật.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư.
3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải đảm bảo bí mật cho các bên tranh chấp.
4. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Điều 5: Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Tranh chấp được xét xử bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Điều 6. Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài
Trong trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại toà án thì toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài được Toà án xác định là vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Điều 7. Trọng tài và thương lượng, hoà giải
1. Các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải hoặc bằng các phương thức khác trước khi đưa ra giải quyết bằng trọng tài. Trong trường hợp thương lượng hoặc hòa giải không thành, nếu có thoả thuận trọng tài, tranh chấp được giải quyết theo quy định của Luật này.
2. Trong trường hợp hòa giải không thành, hòa giải viên không được làm trọng tài viên, hoặc làm người đại diện, người làm chứng, luật sư của bất cứ bên nào trong vụ kiện tại trọng tài hoặc tòa án mà nội dung vụ kiện đó là đối tượng của quá trình hòa giải mà mình đã tham gia, trừ trường hợp tất cả các bên chấp thuận bằng văn bản.
3. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, mọi thông tin trao đổi trong hòa giải sẽ không được coi là chứng cứ tại trọng tài.
Điều 8: Thẩm quyền của toà án trong quan hệ với trọng tài
Thẩm quyền của Tòa án trong quan hệ đối với Trọng tài được xác định trong những trường hợp sau đây:
1. Thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ;
2. Đăng ký phán quyết trọng tài;
3. Tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
4. Xác định thẩm quyền của hội đồng trọng tài;
5. Giải quyết yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài;
6. Bảo đảm sự có mặt của người làm chứng;
7. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
8. Chỉ định, thay đổi trọng tài viên.
Điều 9: Xác định toà án có thẩm quyền đối với trọng tài
1. Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8 của Luật này là Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Thẩm quyền của Tòa án được xác định như sau:
a. Trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một tòa án cụ thể thì Tòa án này có thẩm quyền giải quyết các trường hợp nêu tại Điều 8 của Luật này. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn thì:
b. Tòa án nơi Hội đồng trọng tài tiến hành xét xử có thẩm quyền giải quyết mọi trường hợp nêu tại Điều 8 của Luật này.
c. Tòa án nơi Hội đồng trọng tài tiến hành xét xử hoặc nơi trọng tài thụ lý vụ việc, hoặc nơi có tài sản tranh chấp có thẩm quyền giải quyết việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này;
d. Toà án nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức, hoặc nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân có thẩm quyền giải quyết mọi trường hợp nêu tại Điều 8 của Luật này.
2. Trong trường hợp tài sản, người làm chứng và các chứng cứ ở nước ngoài, Tòa án có thẩm quyền thực hiện uỷ thác tư pháp đối với Trọng tài được xác định theo các quy định của Luật tương trợ tư pháp.
Điều 10. Ngôn ngữ
Các bên có quyền thoả thuận ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài do Hội đồng trọng tài quyết định.
Điều 11. Cách thức gửi thông báo và trình tự gửi thông báo
Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy định khác, cách thức và trình tự gửi thông báo trong tố tụng trọng tài được quy định như sau:
1. Các bản giải trình, văn thư giao dịch và tài liệu khác do mỗi bên gửi phải được gửi tới Hội đồng trọng tài với số bản đủ để mỗi thành viên trong Hội đồng trọng tài có một bản, bên kia một bản và một bản lưu tại Trung tâm trọng tài.
2. Các thông báo, tài liệu mà Hội đồng trọng tài gửi cho các bên được gửi đến địa chỉ của các bên hoặc gửi cho đại diện của các bên theo đúng địa chỉ do các bên thông báo.
3. Các thông báo, tài liệu có thể được Hội đồng trọng tài gửi bằng phương thức giao trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, fax, telex, telegram, thư điện tử hoặc bất kỳ phương thức nào khác có ghi nhận việc gửi này.
4. Các thông báo, tài liệu do Hội đồng trọng tài gửi được coi là đã nhận được vào ngày mà các bên hoặc đại diện của các bên đã nhận, hoặc được coi là đã nhận nếu thông báo, tài liệu đó đã được gửi phù hợp với khoản 2 Điều này.
5. Các thời hạn quy định trong Luật này bắt đầu được tính từ ngày tiếp theo ngày mà thông báo, tài liệu được coi là đã nhận được theo quy định tại Luật này. Nếu ngày tiếp theo đó là ngày lễ chính thức hoặc ngày nghỉ theo quy định của nước, vùng lãnh thổ nơi mà thông báo, tài liệu đã được nhận thì thời hạn này bắt đầu được tính từ ngày làm việc đầu tiên tiếp theo. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn này là ngày lễ chính thức hoặc ngày nghỉ theo quy định của nước, vùng lãnh thổ nơi mà thông báo, tài liệu được nhận thì ngày hết hạn sẽ là cuối ngày làm việc đầu tiên tiếp theo.
Điều 12. Luật áp dụng giải quyết tranh chấp
1. Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, hội đồng trọng tài áp dụng luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì hội đồng trọng tài quyết định áp dụng luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
3. Trường hợp không có quy định của pháp luật như đã nêu trong khoản 1 và khoản 2 nói trên, các thông lệ, tập quán quốc tế có thể được Hội đồng trọng tài áp dụng để giải quyết tranh chấp nếu không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Điều 13. Áp dụng điều ước quốc tế
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Lĩnh vực liên quan
Thông tin tài liệu
Số lượng file 5
Cơ quan soạn thảo Hội Luật gia Việt Nam
Loại tài liệu Luật
Đăng nhập để theo dõi dự thảoÝ kiến của VCCI
- Hiện tại, VCCI chưa có ý kiến về văn bản này. Vui lòng đăng ký theo dõi dự thảo để nhận thông tin khi VCCI có ý kiến.
Ý kiến về dự thảo ( 0 ý kiến )
Văn bản vui lòng gửi tới địa chỉ (có thể gửi qua fax hoặc email):
Ban pháp chế VCCI - số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 024 3577 0632 / 024 3577 2002 - số máy lẻ : 355. Fax: 024 3577 1459.
Email: xdphapluat@vcci.com.vn / xdphapluat.vcci@gmail.com
Bạn vui lòng đăng nhập để gửi ý kiến của mình
Đăng nhậpNếu chưa có tài khoản VIBonline vui lòng đăng ký tại đây.