VCCI góp ý Dự thảo Nghị định về kinh doanh rượu

Thứ Sáu 08:54 25-11-2016

Kính gửi: Vụ Pháp luật
Dân sự, Kinh tế, Bộ Tư pháp

Trả lời Công văn số 1093/GM-BTP của Bộ
Tư pháp ngày 10/11/2016 về việc mời tham gia thẩm định Dự thảo Nghị định về
kinh doanh rượu (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:

VCCI không được lấy ý kiến đối với Dự
thảo Nghị định về kinh doanh rượu vì vậy chưa tổ chức lấy ý kiến rộng rãi đối
tượng chịu tác động của Dự thảo này. Bản góp ý này dựa trên nghiên cứu, rà soát
của chuyên gia của VCCI, chưa tham vấn rộng rãi các doanh nghiệp có liên quan.

Theo quy định tại Nghị định 94[1]
thì hoạt động kinh doanh rượu được quản lý theo hướng xác định “rượu thuộc nhóm
hàng hóa nhà nước hạn chế kinh doanh”, theo đó hạn chế số lượng giấy phép phân
phối, bán buôn, bán lẻ rượu và áp đặt các điều kiện có tính chất hạn chế chủ thể
kinh doanh gia nhập thị trường kinh doanh rượu (yêu cầu giấy chỉ định hoặc ủy
quyền là phân phối, nhập khẩu của chính hãng sản xuất kinh doanh …).

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các
phương thức quản lý trên dường như không hiệu quả, bởi:


Nhiều
doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh rượu nhưng lại không có giấy phép[2]


Quyền
lợi của doanh nghiệp bị ảnh hưởng khi không được cấp lại giấy phép sau khi đầu tư cơ sở vật chất theo quy định, vì số
lượng giấy phép đã được cấp đủ.


Tình
trạng rượu nhập lậu, rượu giả, rượu không đảm bảo chất lượng vẫn tồn tại và lưu
thông trên thị trường

Do đó, việc chuyển đổi phương thức quản
lý, bãi bỏ các quy định có tính rào cản về quyền tự do kinh doanh như trong Dự
thảo là hợp lý, ví dụ:


Bãi
bỏ một số quy định như: Quy hoạch sản xuất rượu; hạn chế số lượng giấy phép
kinh doanh phân phối, bán buôn, bán lẻ sản phẩm rượu (số lượng giấy phép được
xác định theo số dân); yêu cầu thương nhân nhập khẩu phải xuất trình Giấy chỉ định
hoặc ủy quyền là phân phối, nhà nhập khẩu của chính hãng sản xuất kinh doanh hoặc
hợp đồng đại lý của hãng sản xuất, kinh doanh mặt hàng đó; …


Sửa
đổi quy định về công bố hợp quy đối với rượu theo hướng: chỉ công bố hợp quy đối
với rượu đã có quy chuẩn kỹ thuật; công bố phù hợp với quy định an toàn thực phẩm
đối với rượu còn lại


Mở
rộng quyền của các thương nhân phân phối, bán buôn (được bán cho tất cả các đối
tượng chứ không bị thu hẹp, hạn chế trong một số đối tượng)

Những sửa đổi trên thể hiện tinh thần
cải cách, cầu thị từ phía Ban soạn thảo, rất đáng hoan nghênh. Để hoàn thiện Dự
thảo, đề nghị Ban soạn thảo xem xét, cân nhắc một số quy định sau:

1.      Điều kiện đối với thương nhân sản xuất rượu công nghiệp (Điều 6)

So với quy định hiện hành, điều kiện
sản xuất rượu công nghiệp có một số thay đổi theo hướng bỏ một số điều kiện
(phù hợp với Quy hoạch; người tham gia trực tiếp sản xuất rượu phải đảm bảo sức
khỏe, không mắc bệnh truyền nhiễm), các điều kiện còn lại gần như không thay đổi.

Tuy nhiên, một số điều kiện này chưa
đủ rõ ràng, chẳng hạn: “có cán bộ kỹ thuật có trình độ, chuyên môn phù hợp với
ngành, nghề sản xuất rượu” (khoản 6 Điều 6). Không rõ trình độ, chuyên môn như
thế nào thì phù hợp với ngành, nghề sản xuất rượu (trung cấp, cao đẳng hay đại
học; ngành nghề đào tạo là gì? Hay là phải có chứng chỉ chuyên môn nào?). Việc
thiếu rõ ràng trong quy định về điều kiện này có thể khiến cho doanh nghiệp gặp
khó khăn trong thực hiện thủ tục hành chính để xin cấp giấy phép và trao nhiều
quyền có tính chất suy đoán cho các cán bộ thực thi, gây khó cho doanh nghiệp.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo
quy định cụ thể về điều kiện năng lực chuyên môn của cán bộ kỹ thuật tại khoản
6 Điều 6 Dự thảo.

2.      Các hình thức phân phối rượu

Theo quy định tại Dự thảo thì để kinh
doanh theo hình thức phân phối rượu, thương nhân được lựa chọn các hình thức:
phân phối; bán buôn, bán lẻ, bán rượu tiêu dùng tại chỗ. Tùy theo từng hình thức
kinh doanh này thương nhân sẽ có những quyền và nghĩa vụ tương ứng (Điều 16),
theo đó:


Thương
nhân phân phối rượu: được nhập khẩu rượu, bán buôn, bán lẻ, bán rượu tiêu dùng
tại chỗ


Thương
nhân bán buôn: được bán buôn, bán lẻ, bán rượu tiêu dùng tại chỗ


Thương
nhân bán lẻ: được bán lẻ, bán rượu tiêu dùng tại chỗ


Thương
nhân bán rượu tiêu dùng tại chỗ: được bán rượu tiêu dùng tại chỗ

Như vậy, dựa vào các hình thức phân
phối trên, thì thương nhân của mỗi loại hình sẽ bị giới hạn nhất định trong nguồn
cung sản phẩm. Chẳng hạn, thương nhân bán buôn thì không được phép nhập khẩu rượu,
muốn kinh doanh rượu nhập khẩu, chỉ có thể mua thông qua thương nhân phân phối
rượu – tức là họ sẽ bị giới hạn nguồn cung rượu trực tiếp từ các nhà sản xuất,
kinh doanh rượu ở nước ngoài. Đồng nghĩa với việc, các mặt hàng rượu nhập khẩu có
thể rất đa dạng phải phụ thuộc vào một số thương nhân phân phối rượu. Mặt khác,
với những điều kiện khá khắt khe, chỉ có những doanh nghiệp lớn mới có thể tham
gia vào hình thức kinh doanh phân phối rượu (sẽ phân tích chi tiết ở phía sau)
thì có thể dẫn tới sự thao túng thị trường của các thương nhân phân phối rượu
và ảnh hưởng đến quyền lợi của các thương nhân kinh doanh rượu ở các hình thức
khác, nguy cơ làm méo mó thị trường cạnh tranh.

Trong khi, về mặt quản lý nhà nước,
chưa rõ mục tiêu của việc giới hạn về chủ thể có quyền nhập khẩu rượu. Tại sao
các thương nhân bán buôn, bán lẻ, bán rượu tiêu dùng tại chỗ lại không được nhập
khẩu rượu để kinh doanh mà phải thông qua thương nhân phân phối rượu?

“Rượu” là mặt hàng có tác động đến sức
khỏe của con người, vì vậy cần kiểm soát về mặt an toàn của loại hàng hóa này
khi đến người tiêu dùng. Điều này có thể thực hiện theo các quy chuẩn kỹ thuật
hoặc các quy định về an toàn thực phẩm áp dụng đối với sản phẩm hàng hóa này.
Do Dự thảo đã bỏ giới hạn về giấy phép phân phối rượu và cũng không có quy định
về hạn chế số lượng rượu tiêu thụ ở thị trường, điều này được hiểu, rượu là loại
hàng hóa được phép kinh doanh tương tự như các loại hàng hóa kinh doanh có điều
kiện (đối với chủ thể kinh doanh) khác trên thị trường. Vì vậy, việc phân chia
theo nhiều cấp độ phân phối rượu như tại Dự thảo dường như là chưa hợp lý, chưa
thuyết phục và Ban soạn thảo chưa giải trình về tính đặc thù của loại hàng hóa
này so các loại hàng hóa khác để phải phân theo các cấp độ phân phối trong thị
trường.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo
cân nhắc, xem xét thiết kế lại về các hình thức kinh doanh phân phối rượu, đó
là chỉ quy định về điều kiện kinh doanh chung về mua bán rượu (trong đó thương
nhân kinh doanh mua bán rượu có thể bán buôn, bán lẻ hoặc bán tiêu dùng tại chỗ
mà không phải xin giấy phép riêng cho mỗi hình thức phân phối khi muốn kinh
doanh theo hình thức đó).

Trường hợp, giải trình về sự cần thiết
và hợp lý đối với quy định phân chia các hình thức phân phối rượu như tại Dự thảo,
thì đề nghị Ban soạn thảo xem xét về điều kiện kinh doanh của các hình
thức phân phối này ở các điểm sau:

a.
Điều kiện đối với thương nhân phân phối rượu (Điều 9)

Điều 9 Dự thảo quy định, thương nhân
phân phối rượu phải đáp ứng các điều kiện là:


(1)
Vốn điều lệ từ 02 tỷ đồng trở lên;


(2)
Có năng lực tài chính bảo đảm cho hoạt động phân phối rượu tối thiểu 02 tỷ đồng;


(3)
Kho hàng hoặc hệ thống kho hàng với tổng diện tích sàn sử dụng từ 150 m2 trở
lên; Địa điểm trưng bày rượu với tổng diện tích sàn sử dụng từ 30m2 trở lên.


(4)
Có hệ thống phân phối rượu trên địa bàn từ 02 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trở lên; tại địa bàn mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải có ít
nhất 01 thương nhân bán buôn rượu


(5)
Có văn bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc của thương nhân sản xuất rượu hoặc
thương nhân phân phối rượu khác hoặc nhà cung cấp rượu ở nước ngoài


(6)
Trường hợp thương nhân phân phối rượu trực tiếp bán lẻ rượu, bán rượu tiêu dùng
tại chỗ tại các điểm kinh doanh của mình thì phải đáp ứng các điều kiện về bán
lẻ rượu và bán rượu tiêu dùng tại chỗ.

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem
xét các điều kiện kinh doanh trên ở những điểm sau:


Điều
kiện về năng lực tài chính (1), (2): Theo giải trình của Ban soạn thảo thì yêu
cầu về năng lực tài chính để đảm bảo hoạt động ổn định của cơ sở bán buôn và
bán lẻ[3].
Giải trình này dường như chưa phù hợp với mục tiêu quy định về điều kiện kinh
doanh tại Điều 7.1 Luật Đầu tư. Hơn nữa, đứng dưới góc độ quản lý thì Nhà nước
không cần thiết ban hành quy định để đảm bảo ổn định hoạt động của doanh nghiệp,
bởi đây là vấn đề của thị trường. Những doanh nghiệp yếu kém về năng lực sẽ tự
động bị đào thải và những doanh nghiệp thực sự có năng lực sẽ đứng vững và phát
triển ở thị trường. Do đó, với mục tiêu quản lý nhà nước trên thì việc quy định
về năng lực tài chính như tại Dự thảo là chưa phù hợp. Đề nghị Ban soạn thảo
cân nhắc bỏ quy định về năng lực tài chính, tức là bỏ quy định tại khoản 1, 2
Điều 9 Dự thảo.


Điều
kiện về cơ sở vật chất: Không rõ về mục tiêu chính sách khi đặt ra yêu cầu về
diện tích tối thiểu đối với kho hàng mà thương nhân phân phối rượu phải đáp ứng.
Nếu không có được kho hàng với tổng diện tích sàn từ 150m2 trở lên thì hoạt động
của thương nhân phân phối rượu ảnh hưởng gì tới các lợi ích công cộng mà Nhà nước
cần quản lý? Nếu cho rằng, các thương nhân phân phối rượu cần phải có kho hàng
và kho này phải đáp ứng diện tích tối thiểu trên để đảm bảo hoạt động tốt, ổn định,
thì đây là lý do dường như chưa phù hợp và Nhà nước không cần thiết phải đặt ra
yêu cầu này đối với doanh nghiệp.

Tương tự,
cũng không rõ về mục tiêu chính sách đối với yêu cầu phải có phòng trưng bày sản
phẩm và đảm bảo diện tích sàn tối thiểu là 30m2. Mặt khác, trên thực tế, phương
thức kinh doanh thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ, việc giới thiệu sản
phẩm không nhất thiết phải theo cách thức truyền thống là tại phòng trưng bày.
Doanh nghiệp có thể giới thiệu thông qua các website điện tử, các kênh bán hàng
trên mạng. Do vậy, yêu cầu thương nhân phải có phòng trưng bày sản phẩm và đảm
bảo về diện tích tối thiểu của phòng trưng bày là chưa phù hợp với thực tế, gây
khó khăn cho doanh nghiệp.

Quy định này
là cản trở đáng kể đối với các doanh nghiệp chưa có tiềm lực tài chính tham gia
vào thị trường phân phối rượu, tạo ra thuận lợi cho sự độc quyền của các doanh
nghiệp lớn. Điều này dường như đi ngược lại chính sách của Chính phủ trong hỗ
trợ, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh.

Từ những phân
tích trên, đề nghị Ban soạn thảo:

·
Bỏ
quy định về địa điểm trưng bày quy định tại khoản 3 Điều 9 Dự thảo

·
Bỏ
quy định về diện tích tối thiểu đối với kho hàng quy định tại khoản 4 Điều 9 Dự
thảo


Về
điều kiện hệ thống phân phối rượu: Tương tự như các lập luận trên về mục tiêu
chính sách cũng như tính cản trở sự tham gia thị trường của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về điều kiện hệ thống phân phối,
tức là bỏ khoản 6 Điều 9 Dự thảo.

b.
Điều kiện đối với thương nhân bán buôn rượu (Điều 10)

Phân tích tương tự như các điều kiện
đối với thương nhân phân phối rượu, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem
xét bỏ các điều kiện đối với thương
nhân bán buôn rượu sau:



năng lực tài chính bảo đảm cho hoạt động bán buôn rượu của doanh nghiệp tối thiểu
01 tỉ đồng (khoản 2 Điều 10)



quyền sử dụng hợp pháp địa điểm trưng bày rượu với tổng diện tích sàn sử dụng
cho mục đích trưng bày sản phẩm từ 15m2 trở lên (khoản 3 Điều 10)



quyền sử dụng hợp pháp kho hàng hoặc hệ thống kho hàng với tổng diện tích sàn sử
dụng từ 50m2 trở lên (khoản 4 Điều 10)



hệ thống bán buôn rượu trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
thương nhân đặt trụ sở chính với ít nhất 03 thương nhân bán lẻ rượu (khoản 6 Điều
10)

3.      Về các thủ tục hành chính

a.
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép phân phối rượu

Theo quy định tại khoản 7 Điều 19 Dự
thảo thì trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép phân phối rượu, doanh nghiệp phải
cung cấp các tài liệu liên quan đến nhà cung cấp rượu, cụ thể: Bản sao các văn
bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc với thương nhân sản xuất rượu hoặc của
các thương nhân phân phối rượu khác hoặc của nhà cung cấp rượu ở nước ngoài
trong đó ghi rõ các loại rượu dự kiến kinh doanh phù hợp với hoạt động của
thương nhân; trường hợp nhà cung cấp rượu là thương nhân trong nước cần có bản
sao Giấy phép sản xuất rượu hoặc Giấy phép phân phối rượu.

Quy định trên là chưa hợp lý ở các điểm:


Tại
thời điểm xin cấp giấy phép phân phối rượu, doanh nghiệp có thể mới dự kiến
phân phối một số sản phẩm rượu, nếu yêu cầu họ phải cung cấp giấy phép sản xuất
rượu hoặc giấy phép phân phối rượu của đối tác (dự kiến) sẽ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp xin phép, vì họ có thể sẽ khó khăn hay không có được các loại
tài liệu này.

Mặt khác,
trong quá trình kinh doanh sau này, doanh nghiệp có thể mở rộng sản phẩm phân
phối rượu (mở rộng loại sản phẩm, mở rộng nhà cung cấp), đổi nhà cung cấp và Dự
thảo cũng không quy định là doanh nghiệp phải xin cấp lại giấy phép khi thay đổi
tên nhà cung cấp rượu so với đăng ký ban đầu. Như vậy việc yêu cầu cung cấp
thông tin về các nhà cung cấp rượu tại thời điểm xin cấp phép gây tốn kém, tạo
ra khó khăn cho doanh nghiệp nhưng không nhiều ý nghĩa trong đảm bảo mục tiêu
quản lý.


Mục
tiêu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động phân phối rượu nên hướng đến việc
kiểm soát chất lượng rượu của các nhà phân phối khi cung cấp ra thị trường nhằm
bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng. Điều này đã được kiểm soát thông qua “Giấy
tiếp nhận bản công bố hợp quy hoặc Giấy xác nhận công bố phù hợp quy định an
toàn thực phẩm của các sản phẩm rượu” mà thương nhân dự kiến kinh doanh. Do đó,
dù cung cấp bởi nhà cung cấp nào thì các sản phẩm đã được chứng nhận về an toàn
thực phẩm là đủ. Do đó, yêu cầu cung cấp thông tin về nhà cung cấp rượu là chưa
hợp lý.

Từ phân tích trên, đề nghị Ban soạn
thảo
bỏ quy định tại khoản 7 Điều 19 Dự thảo, tức là bỏ yêu cầu “tài liệu
liên quan đến nhà cung cấp rượu” trong Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép phân phối rượu.

Góp ý tương tự, đề nghị bỏ khoản 7 Điều
20 Dự thảo.

Đồng thời, đề nghị Ban soạn thảo
bỏ các nội dung trong các Mẫu tài liệu trong Phụ lục có nội dung liên quan đến
xác định chính xác loại rượu, nhà cung cấp của các loại rượu trong các mẫu sau:


Đơn
đề nghị cấp giấy phép – Phụ lục 1


Giấy
phép – Phụ lục 4, 6

b.
Thẩm quyền cấp giấy phép sản xuất rượu công nghiệp (Điều 22)

Khoản 1 Điều 22 Dự thảo quy định:


Bộ
Công Thương là cơ quan cấp Giấy phép sản xuất rượu công nghiệp có quy mô từ 03
triệu lít/năm trở lên


Sở
Công Thương là cơ quan cấp Giấy phép sản xuất rượu công nghiệp có quy mô dưới
03 triệu lít/năm

Mốc 3 triệu lít/năm dựa cơ sở, chứng
cứ hay phân tích khoa học nào? Việc phân chia thẩm quyền cấp giấy phép dựa vào
công suất sản xuất của doanh nghiệp có thể sẽ dẫn tới hiện tượng gây khó khăn
cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính, bởi có thể có trường hợp
doanh nghiệp tăng/giảm công suất dẫn tới thay đổi thẩm quyền cấp giấy phép,
doanh nghiệp sẽ phải thực hiện thủ tục tại cơ quan cấp phép khác. Điều này đặc
biệt bất lợi đối với các doanh nghiệp ở các địa phương xa Hà Nội (gia tăng chi
phí và thời gian), trong trường hợp các doanh nghiệp phải tập trung xin giấy
phép ở Bộ.

Để giảm thiểu khó khăn cho doanh nghiệp
trong thực hiện thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo phân cấp
để cấp tỉnh cấp giấy phép sản xuất rượu công nghiệp.

c.
Nhập khẩu rượu làm nguyên liệu để sản xuất, gia công sản phẩm, hàng hóa
không phải là rượu (Điều 22)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Dự
thảo thì “thương nhân được phép nhập khẩu rượu làm nguyên liệu để sản xuất, gia
công sản phẩm, hàng hóa không phải là rượu sau khi có văn bản chấp thuận … mà không cần phải có giấy phép sản xuất rượu
công nghiệp hoặc giấy phép phân phối rượu”.

So với Nghị định 94 thì đây là quy định
mới theo hướng linh hoạt hơn cho doanh nghiệp, tuy nhiên quy định này lại tạo
ra một “giấy phép con”, một thủ tục hành chính mới nhưng chưa minh bạch, đó là:
không rõ cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa vào tiêu chí nào để chấp thuận/từ chối hoạt
động nhập khẩu này? Việc thiếu rõ ràng trong quy định có thể dẫn tới dư địa của
tình trạng nhũng nhiễu và phân biệt đối xử trong cùng điều kiện. Do đó, đề
nghị Ban soạn thảo
quy định rõ ràng về vấn đề này.

Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định về kinh doanh rượu. Rất
mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

 


[1]
Nghị định 94/2012/NĐ-CP

[2]
Trang 2 Tờ trình

[3]
Báo cáo tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến – Tài liệu đính kèm Dự thảo