Ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có ý kiến phát biểu tại Hội thảo "Hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh: Vướng mắc và kiến nghị" ngày 22/7/2016
VCCI tổng hợp góp ý Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trên cơ sở các ý kiến góp ý thu nhận
được, VCCI xin tổng hợp những ý kiến đối với Dự thảo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là Dự thảo) như sau:
I.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.
1. Quan điểm tiếp cận
VCCI nhất trí cao với quan điểm của
Ban soạn thảo về sự cần thiết phải ban hành sớm Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam. DNNVV ở mọi quốc gia thế giới đều cần sự trợ giúp, để
vượt những cản trở do quy mô nhỏ gây ra.
Thực tiễn vừa
qua cho thấy các chính sách hỗ trợ DNNVV cho đến nay đã đưa ra được một số giải
pháp, tuy nhiên tính hiệu lực của các văn bản pháp lý chưa cao, mới ở tầm Nghị
định và các Kế hoạch 5 năm (lần 1 và lần 2), nên nguồn lực để triển khai các
giải pháp này còn hạn chế, chưa được bố trí một cách kịp thời. Do đó chưa thể
nói rằng các chính sách này đã đủ để giải quyết các vấn đề phát triển DNNVV nhất
là trong bối cảnh số doanh nghiệp thành lập mới tuy nhiều nhưng quy mô ngày
càng nhỏ đi như hiện nay và cạnh tranh từ nền kinh tế toàn cầu ngày càng khốc
liệt.
VCCI cho rằng trong cách tiếp cận xây
dựng chính sách cần giảm sự can thiệp, hỗ trợ trực tiếp của cơ quan, tăng yếu tố
thị trường thông qua việc phát huy vai trò và năng lực của các hiệp hội doanh,
các doanh nghiệp trong việc triển khai các hoạt động hỗ trợ khu vực DNNVV.
Luật về DNNVV phải giải quyết được những vấn đề phát triển của doanh nghiệp
liên quan đến quy mô kinh doanh mà các luật khác chưa giải quyết được.
Các công cụ chính sách cần giảm nguy cơ “bóp méo thị trường”, tạo thuận lợi cho
DNNVV tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai, mặt bằng sản xuất, nguồn tài
chính, công nghệ…. Nói cách khác Luật hỗ trợ DNNVV cần tạo cơ chế để khơi thông
nguồn lực, hỗ trợ tiếp cận cơ hội kinh doanh cho các DNNVV, tránh việc dẫn
tới tạo cơ chế “xin cho”. Một số ý kiến cho rằng nên dùng từ “phát triển” thay
cho từ “hỗ trợ” trong tên gọi của Luật, cụ thể sẽ là “Luật Phát triển DNNVV”.
2. Về tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Dự thảo đã đưa ra tiêu chí xác
định DNNVV, tuy nhiên xác định tiêu chí thường được hiểu là để “hưởng ưu đãi”
và “nhận hỗ trợ”, từ đó dễ dàng dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sẽ điều chỉnh
quy mô nhỏ lại hoặc tách thành nhiều doanh nghiệp nhỏ hơn, làm méo mó chính
sách hỗ trợ.
Do vậy, cần ghi rõ rằng tiêu chí đưa
ra trong luật chỉ mang tính TƯƠNG ĐỐI và để ĐỊNH HƯỚNG, sẽ được chi tiết hoá
trong từng chương trình hỗ trợ cụ thể. Điều này cũng có nghĩa là không nhất thiết
phải chi tiết hoá các tiêu chí bằng quy định RIÊNG của Chính phủ như ghi trong
Dự thảo. Việc chi tiết hoá bằng quy định RIÊNG sẽ dễ dàng dẫn đến mâu thuẫn
ngay với các tiêu chí được quy định trong các chương trình.
3. Về nguyên tắc hỗ trợ
Dự thảo luật đưa ra một số
các ưu đãi dựa trên điều kiện giả định mà chưa đánh giá hết được rằng với các
ưu đãi như vậy thì doanh nghiệp có thay đổi quyết định đầu tư của mình như người
làm chính sách mong đợi hay không. Các khoản “Hỗ trợ một phần chi phí” chưa rõ
sẽ là TRỰC TIẾP hay GIÁN TIẾP tới doanh nghiệp.
Ngoài ra, với các thủ tục
hành chính như hiện nay, chi phí để tiếp cận sự hỗ trợ cũng khá cao do “phần
hỗ trợ chi phí” của Nhà nước thường được giải ngân qua Kho bạc Nhà nước hoặc
theo quy định của Luật Ngân sách, rất cứng nhắc trong khi phần chi phí còn lại
được điều chỉnh theo cơ chế thị trường
4. Về các nhóm giải pháp hỗ trợ DNNVV được đưa ra trong Dự thảo
Dự thảo Luật hỗ trợ DNNVV đã xây dựng
được một số giải pháp với cách tiếp cận tương đối phù hợp, theo hướng:
Thứ nhất là hỗ
trợ DNNVV dễ dàng trong tiếp cận các nguồn lực đầu vào và đầu ra (vốn, các khoản
tín dụng, mặt bằng sản xuất, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường….); Chương trình về hỗ trợ DNNVV trong quá trình tiếp cận
các nguồn lực phải hướng tới đảm bảo:
–
Tính sẵn có của nguồn lực (ví dụ: Vốn vay với cơ chế
bảo lãnh phù hợp; mặt bằng sản xuất ở khu công nghiệp có diện tích nhỏ, nhà xưởng
được xây sẵn để cho thuê…)
–
Khả năng chi trả
–
Mức độ dễ dàng khi tiếp cận, đảm bảo rõ
ràng, minh bạch, thuận lợi;
Thứ hai là
chương trình hỗ trợ với các mục tiêu cụ thể nhằm hướng DNNVV phát triển ở những
ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với quá trình tái cấu trúc kinh tế.
Hai nhóm giải pháp chính này sẽ bổ trợ
cho nhau, một mặt giúp cho DNNVV nói chung đông về số lượng nhưng cũng đồng thời
lớn lên về quy mô để có thể đủ sức tồn tại và cạnh tranh. Mặt khác, hỗ trợ tập
trung vào một nhóm các doanh nghiệp có năng lực bứt phá, phát triển dựa vào đổi
mới sáng tạo, phù hợp với cấu trúc của nền kinh tế hiện đại, và điều này có thể
thực hiện được thông qua một số Chương trình hỗ trợ cụ thể. Tuy nhiên cần xem
xét để cân đối với các chương trình hiện có, tránh chồng chéo hoặc hỗ trợ dàn trải.
5. Về hệ thống tổ chức hỗ trợ DNNVV thông qua Hiệp hội.
Nghị quyết số
09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, đã xác định Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam với vai trò là một tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp đại diện cho cộng
đồng doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng
lao động ở Việt Nam.
Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng nêu
rõ nhiệm vụ “tăng cường hợp tác, tham vấn,
đối thoại giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh
nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; tạo điều kiện cho các doanh nhân, hiệp
hội doanh nghiệp tham gia vào việc xây dựng, triển khai các quy hoạch phát triển
ngành hàng, kinh tế vùng và địa phương”.
Dự thảo Luật cần ghi nhận vai
trò của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc đại diện
cho cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, đội ngũ doanh
nhân và người sử dụng lao động, thực hiện việc kết nối với
các hiệp hội theo ngành, lĩnh vực, địa bàn; giữa cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và
vừa với cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xúc tiến phát triển doanh nghiệp
và các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước
II.
GÓP Ý VỀ MỘT SỐ ĐIỀU KHOẢN CỤ THỂ
1. Điều 3: Giải thích từ ngữ
Đề nghị giải thích từ “Hiệp
hội” theo Nghị định 45/2010/NĐ-CP quy định về Hội.
Đối với các “cơ sở làm việc chung”, “cơ sở ươm tạo
doanh nghiệp” cần có quy định rõ về tư cách pháp nhân (đăng ký hoạt động theo
quy định nào) vì đây cũng là một đối tượng sẽ được hỗ trợ trong Luật.
Khoản 3, như đã giải thích tại mục 2, phần I.
Đối với tiêu chí về nguồn vốn, cần
xác định rõ thời điểm xác định tổng nguồn vốn. Có thể xác định đó là tổng nguồn
vốn của năm trước liền kề (theo báo cáo tài chính).
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cần nêu
rõ cách tính số lao động làm việc tại doanh nghiệp khi hiện nay Bộ luật Lao động
đã cho phép thuê lại lao động? Tức là một doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác
thuê lại người lao động của mình. Khi đó cần có tiêu chí xác định số lao động của
các doanh nghiệp cho thuê và doanh nghiệp thuê.
Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng
tiêu chí “tổng doanh thu” thay thế cho “tổng nguồn vốn” cũng cần được
cân nhắc, khi tiêu chí “tổng doanh thu” có thể phản ánh phù hợp hơn
quy mô của doanh nghiệp hiện nay. Việc sử dụng tiêu chí doanh thu là phù
hợp với thông lệ quốc tế và cũng thống nhất với các quy định pháp luật
khác của Việt Nam như Luật Thuế Thu nhập Doanh nghiệp, Luật Quản lý
thuế …
Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu điều chỉnh tiêu chí xác
định DNNVV theo hướng dựa vào cả 2 tiêu chí là: số lao động bình quân năm và
tổng doanh thu.
2. Điều 6. Nguyên tắc hỗ trợ
Khoản 2 Điều 6 Dự thảo quy định: “Doanh
nghiệp nhỏ và vừa phải đáp ứng các điều kiện của từng nội dung, chương trình hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tại cùng một thời điểm trường hợp DNNVV đồng thời
đáp ứng các điều kiện khác nhau về cùng một nội dung hỗ trợ thì doanh nghiệp được
lựa chọn áp dụng mức hỗ trợ theo quy định có lợi nhất”.
Với
cách quy định như trên doanh nghiệp sẽ phải tìm hiểu các chương trình ‘có
cùng nội dung hỗ trợ” để xác định xem nên nhận mức hỗ trợ theo quy định nào
là “có lợi nhất”. Đồng thời các cơ quan Nhà nước sẽ không biết đâu là mức hỗ trợ
theo quy định là “có lợi nhất” để áp dụng cho doanh nghiệp.
3.
Điều 8
Dự thảo quy định “Tuần lễ doanh
nghiệp nhỏ và vừa quốc gia được tổ chức vào tuần 2 của tháng 10
hàng năm”. Tuy nhiên, đây cũng là khoảng thời gian trùng với dịp kỷ niệm
ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10 và các đợt trao các giải thưởng doanh nhân tiêu
biểu. Việc tổ chức Tuần lễ DNNVV vào dịp này sẽ khó thực hiện do các hiệp hội
doanh nghiệp tập trung chủ yếu cho ngày lễ, sẽ ít tham gia tuần lễ DNNVV.
Chúng tôi đề nghị nên tổ chức vào tuần
thứ 3 của tháng 11, thời điểm trùng với tuần lễ khởi nghiệp toàn cầu.
Nếu Dự thảo ấn định ngày tổ chức Tuần
lễ thì cũng đồng thời phải xác định tổ chức chủ trì công việc tổ chức và các
công việc diễn ra trong Tuần lễ DNNVV phải do Cơ quan có chức năng phù hợp chủ
trì. Năm 2008, với sự thống nhất của Văn Phòng Chính phủ, VCCI đã tổ chức thành
công Tuần lễ DNNVV lần thứ nhất.
4. Điều 9.Về cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính
Đây là
quy định đặc biệt quan trọng. Quy định này, nếu vẫn được giữ như đang quy
định tại Khoản 2 Điều 9 Dự thảo, sẽ khó phát huy được hiệu quả, ở điểm:
Quy định theo cách hiện tại có thể được
hiểu, nếu trong Luật có các quy định có tính chất phân biệt đối xử về điều kiện
kinh doanh, tiếp cận các nguồn lực dựa trên các tiêu chí về quy mô kinh doanh
thì các quy định này sẽ là “hợp pháp”. Thực tế thì các điều kiện kinh doanh có
tính chất như trên được quy định khá nhiều ở trong Luật và văn bản cấp dưới Luật,
nhiều trường hợp trong đó chưa đảm bảo tính hợp lý. Kiểm soát việc phân biệt đối
xử về điều kiện kinh doanh, về tiếp cận các nguồn lực dựa trên các tiêu chí về
quy mô kinh doanh chỉ giới hạn ở cấp văn
bản dưới luật là chưa hợp lý và có thể khiến cho quy định này trở nên không
hiệu quả.
Theo quy định của Luật Đầu tư thì việc
kiểm soát đặt ra quy định về điều kiện kinh doanh (phù hợp với các mục tiêu quy
định tại Luật Đầu tư) không chỉ giới hạn trong các văn bản dưới luật mà kiểm
soát cả việc soạn thảo và ban hành các đạo luật.
Ngoài ra, lưu ý rằng việc phân biệt đối
xử dựa trên quy mô nhưng theo hướng đơn giản, thuận tiện hơn cho DNNVV (ví dụ
như DNNVV thì tần suất kê khai thuế theo nửa năm, thay vì theo quý như doanh
nghiệp lớn) thì nên cho phép và khuyến khích.Vì vậy, để đảm bảo tính hiệu quả
và hợp lý của quy định này, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi Điều 9 theo hướng:
“cấm ban hành các quy định phân biệt đối
xử về điều kiện kinh doanh, tiếp cận các nguồn lực dựa trên các tiêu chí về quy
mô kinh doanh không phù hợp với quy định tại Luật Đầu tư năm 2014, trừ khi
những quy định này tạo thuận lợi cho các DNNVV”.
5. Điều 10. Về hỗ trợ tiếp cận tín dụng.
Cần sửa tiêu đề thành: “Về hỗ trợ tiếp
cận nguồn tài chính”.
Tiếp cận tín dụng chỉ là một trong
các hình thức huy động vốn. DNNVV có thể tiếp cận nguồn vốn thông qua các quỹ đầu
tư, thuê mua tài chính, qua thị trường chứng khoán…
Khoản 1, Điều 10 của Dự thảo đang thiết
kế theo hướng Nhà nước sẽ cấp vốn cho ngân hàng thương mại để hỗ trợ cho vay
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, Dự thảo chưa chỉ rõ được Nhà nước sẽ cấp
vốn trong trường hợp nào bởi các tiêu chí để các ngân hàng thương mại nhận khoản
vốn này được chỉ ra trong Dự thảo còn chung chung. Các giải pháp phải nhằm khuyến
khích tăng tỷ lệ dư nợ cho vay dành
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chẳng hạn, để khuyến khích các Ngân hàng
thương mại mở rộng các khoản vay cho DNNVV nhà nước cần ghi rõ “Nhà nước ưu tiên cấp vốn tín dụng (hoặc cộng
thêm điểm trong đấu thầu trái phiếu Chính phủ) cho các Ngân hàng thương mại có
dư nợ tín dụng cho DNNVV chiếm trên 30%“. Nói cách khác, các giải pháp phải
nhằm khuyến khích tăng tỷ lệ dư nợ cho
vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Khoản 3 quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa được ưu tiên tiếp cận
các nguồn vốn tín dụng chính sách của nhà nước để phục vụ sản xuất kinh doanh
theo quy định của pháp luật”. Đề nghị làm rõ “Ưu tiên” như thế nào?
Khoản 4. Tương tự như khoản 3, cần
làm rõ “Ưu tiên tiếp cận các dịch vụ tín
dụng vi mô” được hiểu như thế nào? Là những ưu tiên gì? Cần lưu ý rằng định
nghĩa “tín dụng vi mô” ở Việt Nam rất hẹp. Nghị định 28/2005/NĐ-CP năm 2005
và Nghị định 165/2007/NĐ-CP năm 2007 quy định: “Tín dụng quy
mô nhỏ: là khoản cho vay có giá trị nhỏ, có hoặc không có tài sản
bảo đảm đối với các hộ gia đình cá nhân có thu nhập thấp để sử dụng vào các hoạt
động tạo thu nhập và cải thiện điều kiện sống”. Với định nghĩa này, hoạt động của
các tổ chức tài chính tín dụng vi mô không mở rộng được tối đối tượng khách
hàng là các DNNVV (có chăng chỉ đủ cho doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia
đình vay) và các khoản tín dụng vi mô cũng khó có thể phục vụ mục đích “đầu tư
kinh doanh”.
Khoản 5 quy
định về bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần xác
định rõ việc Quỹ bảo lãnh tín dụng là tổ chức tài chính nhưng được thành lập và
hoạt động theo Luật nào khác hay chỉ theo Luật hỗ trợ DNNVV này? (Quỹ Bảo lãnh
tín dụng cho DNNVV có thể thành lập theo Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp…).
Nếu theo Luật Hỗ trợ DNNVV thì cần phải làm rõ chi tiết một số nguyên tắc cơ bản
như:
–
Quyền
thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV của các tổ chức, cá nhân;
–
Chức
năng, nhiệm vụ, tính chất của Quỹ. Đa số các quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là
tổ chức tài chính nhưng hoạt động không vì mục đích sinh lời;
–
Đặc
trưng chính là Quỹ chỉ bảo lãnh khi các DNNVV không đủ tài sản thế chấp;
–
Tỷ
lệ khoản vay được bảo lãnh trên tổng giá trị khoản vay;
–
Một
số điều kiện cần thiết để thực hiện bảo lãnh;
–
Cơ
quan tổ chức quy định về phí bảo lãnh;
–
Trách
nhiệm của doanh nghiệp và ngân hàng sau khi Quỹ Bào lãnh tín dụng đã trả nợ
thay trong trường hợp DN không trả được nợ khi đến hạn.
Qũy không nên thực hiện chức năng “cung cấp một số dịch vụ tư
vấn, nâng cao năng lực xây dựng phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, sử
dụng vốn vay hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” vì như vậy nó có thể ảnh
hướng đến việc ra quyết định bảo lãnh. Nếu thực hiện các dịch vụ nêu trên thì
phải ghi rõ là chỉ cung cấp dịch vụ này
cho các doanh nghiệp sau khi Quỹ chấp thuận bảo lãnh, tập chung vào cung cấp
dịch vụ “nâng cao năng lực sử dụng vốn”.
Cần
bổ sung giải pháp đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ DNNVV thông qua phát triển
các Quỹ đầu tư tư nhân (bao gổm Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ thiên thần, Quỹ Thách
thức… )
Cho phép phát triển các hệ thống đánh
giá định mức tín nhiệm (đánh giá tín nhiệm không chỉ đối với doanh nghiệp đã từng
đi vay, mà kể cả đối với doanh nghiệp chưa đi vay).
6.
Điều 12. Hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Điểm (b)
và (c) đưa ra ưu đãi dựa trên giả định
rằng khu công nghiệp/cụm công nghiệp đã được lấp đầy” trong khi để đạt được điều
này không hề dễ dàng. Do đầu tư cơ sở hạ tầng cho DNNVV thuê thường tốn kém hơn
so với cho doanh nghiệp lớn thuê, nên để khuyến khích cho các nhà đầu tư cơ
sở hạ tầng phù hợp cho các DNNVV thuê thì cần hỗ trợ họ nguồn vốn đầu tư rẻ,
chi phí giải phóng mặt bằng.
Ngoài ra cải phóng mặt bằng. tầng phù hợ(b) và (c) này như sau:
“b) Doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân đầu tư kinh doanh phát triển hạ tầng các khu công nghiệp cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa thuê trên 20%
diện tích đất công nghiệp đã được
thuê thì ngoài việc được hưởng ưu đãi thuế theo quy định của
pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất (nếu có) còn được
giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ doanh thu cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê.
c) Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư kinh doanh phát triển hạ tầng cụm công nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuê trên 30% diện tích đất công
nghiệp đã được thuê thì
ngoài việc được hưởng ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật thuế
thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất (nếu có) còn được giảm 50% số thuế
thu nhập doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ doanh thu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuê”.
Cần bổ sung điều khoản liên quan đến
việc các nhà đầu tư các khu đô thị mới dành quỹ đất thích hợp (tối thiểu 10% chẳng
hạn để xây dựng các khu trung tâm thương mại cho các DNNVV thuê. Đồng thời xác
định rõ việc cho phép các DNNVV đặt các văn phòng giao dịch tại các khu chung cư
như thế nào.
7.
Điều 13. Hỗ trợ nâng cao năng lực
công nghệ,
Hầu hết
các giải pháp hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ sử dụng công cụ “hỗ trợ một phần chí phí ” mà không có công cụ hỗ trợ bổ
sung khác. Trên thực tế, các doanh nghiệp tiếp thu công nghệ bằng nhiều con đường
khác nhau và khó khăn không chỉ do chi phí cao. Hơn thế nữa, ở đây cần xác định
rõ, phần chi phí này hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp cho DNNVV (hay thông qua
các chương trình, dự án). Cần làm rõ DNNVV tiếp cận được các nguồn hỗ trợ này như thế nào.
Bên cạnh đó, với số lượng DNNVV lớn như hiện
nay, các biện pháp hỗ trợ một phần chi phí mà Dự thảo Luật đang thiết kế cho rất nhiều lĩnh vực hỗ trợ
thì cần tính đến tính khả thi và gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước. Mặt
khác, Dự thảo cũng không quy định rõ nguồn hỗ trợ cho các DNNVV là từ nguồn
của địa phương hay là trung ương.
Nên chăng,
nhà nước thông qua chính sách thuế để khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ
phi phi tài chính cho DNNVV (được khấu trừ chi phí đào tạo, tư vấn chuyển giao
công nghệ … khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp).
8. Điều 14. Hỗ trợ tiếp cận thị trường
Khoản 2, điểm a quy định, “Nhà nước khuyến khích phát triển hệ thống chuỗi phân phối sản phẩm quốc gia”: áp dụng như ở điều 12, khoản 2 – quy định về
ưu đãi đối với “khu làm việc
chung, cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ”. Vấn đề ở đây là kinh doanh “chuỗi phân phối sản phẩm quốc gia” không
giống như kinh doanh “khu làm việc chung, cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ”. Hơn thế nữa, khái niệm “Chuỗi phân phối sản phẩm quốc gia rất không rõ ràng,
chưa có định nghĩa cụ thể.
Khoản 2,
điểm b quy định: “Ưu
tiên cung ứng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp nhỏ và vừa cung ứng trong chuỗi
phân phối sản phẩm quốc gia”. Tuy
nhiên, Dự thảo chưa làm rõ: Ai được hưởng ưu tiên và ưu tiên bằng cái gì?
Khoản 3
của Điều này có thể
được hiểu là tạo điều kiện cho các DNNVV cung cấp các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Tuy nhiên, quy định tại Dự thảo sẽ có thể tạo ra nguy cơ mục tiêu của nhà nước
sẽ khó đạt được ở điểm: không rõ là gói thầu này là: (1) chỉ cho DNNVV tham gia
hay (2) tất cả các doanh nghiệp khác tham gia trong đó có DNNVV. Đối với trường
hợp (1) thì biện pháp hỗ trợ này sẽ thực sự phát huy hiệu quả. Tuy nhiên hiệu ứng phụ khác là có thể “khuyến
khích” các chủ thầu gom các gói thầu nhỏ thành gói thầu lớn để hạn chế DNNVV
tham gia. Đối với trường hợp (2) thì khả năng DNNVV trúng thầu là thấp, vì khó
có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp quy mô lớn hơn nếu như DNNVV
không được chỉ định thầu. Trong trường hợp
DNNVV được chỉ định thầu thì điều này sẽ làm “méo mó” thị trường.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới
cho thấy nên quy định: “Chính phủ hàng năm dành tối thiểu tỷ lệ nhất
định (ví dụ tối thiểu 20%) trị giá hợp đồng mua sắm công cho các DNNVV và tổ chức
đấu thầu riêng giữa các DNNVV và các DNNVV này sẽ được tăng cường năng lực trước
khi cùng tham gia đấu thầu; hoặc ưu tiên cho các doanh nghiệp lớn có sử dụng
nhà thầu phụ là DNNVV khi đấu thầu mua sắm công”.
9. Điều 15. Hỗ trợ thông tin và
tư vấn:
Khoản 2 quy định “Doanh nghiệp
nhỏ và vừa có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn được quyền lựa chọn tổ chức, cá
nhân cung cấp dịch vụ tư vấn trong cơ sở dữ liệu đã được công bố thì được cơ
quan, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa xem xét hỗ trợ tối đa 50% chi phí
hợp đồng tư vấn” mâu thuẫn với khoản 4, Điều 6 quy định nguyên tắc “Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện trên cơ sở đấu thầu lựa chọn các tổ chức, các
nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Hai điều này chỉ có
thể thống nhất được nếu như các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa được công bố trong cơ sở dữ liệu sau khi qua đấu thầu lựa
chọn.
10.
Điều 18. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Cần đặt tên các chương trình hỗ trợ DNNVV một cách
ngắn gọn với mục tiêu rõ ràng.
Cần làm rõ tính hệ thống, nhất quán của các
chương trình hỗ trợ DNNVV (Theo chuỗi giá trị? Theo các giai đoạn tăng trưởng
của DN? Theo định hướng tái cấu trúc… )
Cần xác định tính kế thừa và lồng ghép với
các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp hiện có.
Khoản 2 mục (b) về tổ chức lấy ý
kiến của các DNNVV là đối tượng của chương trình và cơ quan quản lý nhà nước về
DNNVV. Chỉ cần quy định về việc lấy
ý kiến đối với chương trình, dự án hỗ trợ DNNVV sử dụng ngân sách nhà nước có
quy mô lớn (chẳng hạn 1000 tỷ trở lên). Việc “lấy ý kiến” phải được hiểu
là “Khảo sát nhu cầu hỗ trợ của DNNVV”.
11.
Điều 21. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Khoản 3 mục b quy định Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch, chương trình,
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Đề nghị bỏ thủ tục trình qua Bộ
Kế hoạch và Đầu tư để giảm bớt thủ tục hành chính và ghi rõ: “Các dự án, chương trình do cơ quan nào chủ
trì thì sau khi lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan và Bộ Kế hoạch và Đầu
tư thẩm định nội dung thì các cơ quan chủ trì sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyêt”.
12.
Điều 22.
Xác định vai trò, vị trí của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong điều này. Sửa đổi đề mục và bổ sung Khoản
2 và khoản 3 như sau:
Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và hiệp hội trong các ngành,
lĩnh vực, địa bàn.
2) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài các quy định tại Khoản 1 Điều
này, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam có trách nhiệm sau:
a) Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cho
cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
b) Kết nối với các hiệp hội theo ngành, lĩnh vực, địa bàn; giữa cộng đồng
doanh nghiệp nhỏ và vừa với cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xúc tiến phát
triển doanh nghiệp và các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước.
3) Các dịch vụ xúc tiến do các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện để hỗ trợ, phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
13.
Điều 28. Công khai hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Cần có quy
định cụ thể hơn:
–
Về nội
dung cần công khai;
–
Về hình thức (bắt buộc
bằng tất cả các hình thức hay chỉ cần 1 trong các hình thức quy định);
–
Về thời gian (30 ngày
sau khi phê duyệt chương trình, kế hoạch) vậy công khai về kết quả đánh giá thực
hiện và các thông tin liên quan khác thì khi nào?
14.
Điều 29. Giám sát hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khoản
2, bổ sung nội dung giám sát.
c) Đánh giá, so sánh kết quả hoạt động của các
DNNVV trước và sau khi tham gia chương trình hoặc nhận hỗ trợ, tối thiểu theo
các tiêu chí sau: số lượng lao động được tạo thêm, tăng trưởng doanh thu, tăng
trưởng lợi nhuận.
Theo Dự
thảo, dự kiến sẽ có ít nhất 9 điều khoản được “Chính phủ quy định chi tiết”. Như
vậy sau khi Luật này ra đời, để DNNVV xác định được mình có được ưu
tiên không lại phải chờ rất nhiều những quy định của Chính phủ. Vì vậy
đề nghị Dự thảo cần giảm bớt những điều khoản giao Chính phủ quy định chi tiết,
đưa ngay các quy định chi tiết vào Dự thảo Luật để đảm bảo tính thực thi cao.
Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Rất mong quý Cơ quan
soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Ngoài ra
gửi kèm theo đây là tất cả các bản góp ý mà VCCI nhận được của doanh nghiệp, hiệp
hội góp ý cụ thể về Dự thảo để Quý Cơ quan xem xét.
Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.