VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi về điều kiện kinh doanh thuộc quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thứ Sáu 09:12 27-07-2018

Kính gửi: Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Trả lời Công văn số 4982/NHNN-PC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam[1] (VCCI) có một số ý kiến như sau:

  1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2010/NĐ-CP về hoạt động thông tin tín dụng
  2. Về tên văn bản

Dự thảo chỉ sửa đổi duy nhất khoản 5 Điều 7 Nghị định 10. Trong khi đó, trên thực tế, Điều 7 Nghị định 10 đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 57/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/7/2016. Vì vậy, để đảm bảo tính chính xác về tên văn bản được sửa đổi, bổ sung, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại là “sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 7 Nghị định số 10/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng”.

  1. Về các điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng

Theo quy định tại Nghị định 57 thì để được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện về vốn tối thiểu (30 tỷ đồng), về nhân lực quản lý (phải có bằng đại học, kinh nghiệm làm việc…), về phương án kinh doanh (phải khả thi); về đối tác (phải có tối thiểu 20 ngân hàng đồng ý cung cấp thông tin).

Tất cả các điều kiện này đều cần được xem xét lại ở một số điểm sau:

  • Đối với điều kiện về vốn pháp định (30 tỷ đồng):

Yêu cầu về vốn pháp định thường áp dụng đối với những ngành, nghề mà yếu tố vốn tác động trực tiếp đến các lợi ích công cộng quan trọng, theo diện rộng, ví dụ như: ngân hàng (“tiền” là sản phẩm giao dịch chính trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đây là yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng cũng như sự ổn định của kinh tế – xã hội). Hoạt động cung cấp thông tin ngân hàng không có tính chất đặc thù trên.

Nếu mục tiêu của quy định về vốn nhằm hướng đến bảo đảm hoạt động của “công ty thông tin tín dụng hiệu quả, phát triển bền vững”[2] thì đây là mục tiêu chưa phù hợp với quy định về điều kiện kinh doanh theo quy định khoản 1 Điều 7 Luật đầu tư 2014 (vì đảm bảo các lợi ích công cộng). Việc đảm bảo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là vấn đề thuộc về thị trường và tự bản thân doanh nghiệp sẽ phải đáp ứng nếu muốn tồn tại và cạnh tranh. Đây không phải là yếu tố tác động đến các trật tự công (nếu doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện này thì những lợi ích công cộng nào bị xâm phạm?), do đó Nhà nước không cần thiết phải can thiệp.

Do đó, để đảm bảo tính hợp lý, thúc đẩy cạnh tranh trong lĩnh vực này, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định bỏ điều kiện về “vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng”, tức là bỏ khoản 2 Điều 7 (sửa đổi).

  • Về điều kiện về văn bằng chuyên môn và kinh nghiệm của nhân lực quản lý (2):

Nghị định 57 quy định khá nhiều điều kiện ràng buộc đối với Ban quản lý, điều hành của doanh nghiệp. Một trong những mục tiêu đặt ra là nhằm hạn chế những “rủi ro đạo đức đối với hoạt động này”[3].

Các điều kiện để kiểm soát rủi ro về đạo đức đối với hoạt động cung cấp thông tin tín dụng có thể là cần thiết bởi hoạt động này liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều cá nhân, tổ chức (có thông tin được khai thác). Tuy nhiên, các điều kiện về học vấn và kinh nghiệm làm việc như nêu trong Nghị định 57 hầu  như không thể đảm bảo được mục tiêu trên. Không có gì chứng minh được một người có trình độ đại học trong một số ngành kinh tế, kế toán, tài chính lại có “đạo đức” hơn là những người không có bằng cấp hoặc trình độ trong các ngành học kia. Yêu cầu kinh nghiệm làm việc cũng khó phản ánh được yếu tố đạo đức của người làm việc, nếu không có sự xác nhận là họ có vi phạm pháp luật trong quãng thời gian làm việc hay không.

Hơn nữa, kiểm soát quá nhiều cá nhân từ chủ tịch hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, chủ tịch công ty đến từng thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên, thành viên  hợp danh, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc đến thành viên ban kiểm sát là quá rộng và quá chặt chẽ. Đây cũng là rào cản đáng kể cho các doanh nghiệp muốn gia nhập vào thị trường này.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung vào Dự thảo quy định sửa đổi quy định về điều kiện của ban quản lý, người điều hành doanh nghiệp tại khoản 3 Điều 7 (sửa đổi) theo hướng:

  • Chỉ kiểm soát điều kiện đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
  • Điều kiện áp dụng nên là điều kiện về nhân thân liên quan của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (ví dụ chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính/truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực về tín dụng, thông tin tín dụng hoặc các vi phạm liên quan đến xâm phạm bí mật thông tin của cá nhân, tổ chức).
  • Về điều kiện phương án kinh doanh

Yêu cầu phải có phương án  kinh doanh khả thi là điều kiện can thiệp sâu vào quyền tự chủ của doanh nghiệp và ít ý nghĩa (bởi  phương án kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có thể phải thay đổi tùy theo diễn biến của thị trường và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, do đó, phương án kinh doanh tại thời điểm cấp phép có thể được thay đổi ngay sau đó). Cơ quan nhà nước cũng không thể yêu cầu doanh nghiệp mỗi khi thay đổi phương án kinh doanh lại phải nộp báo cáo, điều này sẽ phát sinh rất lớn thủ tục hành chính, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Vì vậy, cơ quan nhà nước sẽ không biết được phương án kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm hoạt động như thế nào.

Mặt khác, căn cứ nào để cơ quan nhà nước đánh giá phương án kinh doanh có khả thi hay không? Và liệu cán bộ thụ lý hồ sơ (là người làm công tác quản lý, hành chính) có đủ năng lực để thẩm tra và đánh giá tính khả thi của một phương án kinh doanh mang tính thị trường của doanh nghiệp hay không?

Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định bỏ điều kiện “có phương án kinh doanh khả thi”.

  • Về điều kiện đối tác:

Không rõ mục tiêu của quy định về số lượng tối thiểu các ngân hàng đối tác và tính độc quyền của công ty thông tin tín dụng trong quan hệ với các ngân hàng đối tác này là gì?

Nếu mục tiêu của quy định này là để kiểm soát trước quan hệ giữa công ty tài chính cung cấp dịch vụ và đối tác ngân hàng thì điều kiện này là không cần thiết bởi

Nghị định 10 đang thiết kế một cơ chế kiểm soát khá chặt chẽ nhằm quản lý quy trình và phạm vi cung cấp thông tin tín dụng (áp đặt điều kiện để được cấp phép hoạt động đối với chủ thể cung cấp thông tin tín dụng; giới hạn về các thông tin tín dụng được thu thập; đặt các yêu cầu về xử lý thông tin tín dụng, lưu giữ thông tin tín dụng …).

Còn nếu mục tiêu của quy định này là để bảo đảm nguồn cung cho công ty thông tin tín dụng thì hoàn toàn không cần thiết bởi đây là vấn đề của thị trường, doanh nghiệp không bảo đảm được thì tự động không thể duy trì. Điều này cũng không ảnh hưởng gì tới lợi ích công công. Đó là chưa kể tới việc quy định này sẽ tạo ra tình trạng độc quyền của công ty dịch vụ thông tin (bởi với số lượng tối thiểu 20 ngân hàng cam kết thì có lẽ trên toàn thị trường chỉ có thể có một vài công ty dịch vụ thông tin – thậm chí là chỉ một công ty nếu nhìn từ góc độ thị phần của ngân hàng). Điều này rõ ràng ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới, tới cạnh tranh và quyền lợi của chủ thể sử dụng dịch vụ của các công ty dịch vụ thông tin này.

Ngoài ra, việc chỉ cho phép các ngân hàng thương mại có cam kết cung cấp thông tin tín dụng với một công ty cung cấp thông tin tín dụng đồng nghĩa với việc yêu cầu các ngân hàng thương mại này chỉ được tiếp nhận sản phẩm thông tin tín dụng từ công ty mà ngân hàng này cam kết mà không được lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ khác (bởi, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 10 thì tổ chức cấp tín dụng có cung cấp thông tin cho công ty thông tin tín dụng sẽ là đối tượng được cung cấp thông tin tín dụng). Điều này khiến cho quyền lợi của các ngân hàng thương mại này không được đảm bảo (vì không được lựa chọn nhà cung cấp) trong khi họ lại phải bỏ tiền ra cho các dịch vụ này.

Với các phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định bỏ hoàn toàn điều kiện này, tức là bỏ khoản 5 Điều 7 (sửa đổi).

  1. Về các điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ tại Nghị định 69/2016/NĐ-CP

Tại thời điểm xây dựng Nghị định 69, VCCI đã nhiều lần có ý kiến[4] về việc không nên xác định dịch vụ mua bán nợ là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, bởi vì:

  • Về mục tiêu quản lý:

Theo Điều 7.1 Luật Đầu tư 2014 thì điều kiện kinh doanh được áp dụng đối với các ngành nghề nhất định “vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Nói cách khác, các ngành nghề này (toàn bộ hoặc một phần các hoạt động trong ngành nghề) có thể ảnh hưởng tới các lợi ích công cộng ở mức mà cần thiết phải đặt ra các điều kiện kinh doanh nhất định. Đối với “dịch vụ mua bán nợ”, Ban soạn thảo chưa chỉ ra được mối liên quan nào giữa hoạt động kinh doanh này với những mục tiêu công cộng cần phải bảo vệ thông qua các điều kiện kinh doanh như liệt kê tại Luật Đầu tư (cả dịch vụ mua bán nợ hoặc một số hoạt động nào đó trong dịch vụ mua bán nợ).

Thứ nhất, đối với giao dịch mua bán nợ:

Mua bán nợ là giao dịch trong đó các quyền và nghĩa vụ đối với một khoản nợ được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác (định nghĩa tại Dự thảo “Mua, bán nợ là việc bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán bằng tiền từ bên mua nợ”). “Nợ” trong trường hợp này bao gồm tất cả các khoản nợ hình thành trong các giao dịch khác nhau, và vì thế trong giao dịch mua bán nợ, đây là chỉ là một loại “hàng hóa” để mua bán thông thường. Chủ thể của giao dịch mua bán nợ trong trường hợp này có thể là bất kỳ chủ thể kinh doanh nào (trừ các chủ thể chuyên nghiệp như các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán…đã được loại trừ tại Điều 1 Dự thảo). Toàn bộ giao dịch không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ hay khoản nợ, mà chỉ thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ đó. Như vậy, cả chủ thể giao dịch lẫn đối tượng giao dịch đều không có ảnh hưởng nào tới các lợi ích công cộng được liệt kê trong Điều 7.1 Luật Đầu tư.

Trường hợp một chủ thể chuyên kinh doanh hoạt động mua bán nợ (thực hiện thường xuyên, liên tục các giao dịch mua bán nợ) thì hoạt động của chủ thể này cũng chỉ là gia tăng tần suất các giao dịch, còn trong tổng thể thì tác động của các hoạt động mua bán nợ của các chủ thể chuyên kinh doanh hoạt động mua bán nợ đối với các lợi ích công cộng cũng không thay đổi.

Ngoài ra, cần chú ý rằng trong Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư thì ngành nghề kinh doanh liên quan là “dịch vụ mua bán nợ” chứ không phải hoạt động mua bán nợ (kể cả khi hoạt động này được thực hiện với tần suất cao, bởi chủ thể chuyên trực tiếp thực hiện việc mua bán nợ – bởi ở đây không có “dịch vụ” nào được cung cấp, mà chỉ có việc mua bán trực tiếp giữa các chủ thể).

Thứ hai, đối với các dịch vụ gắn với giao dịch mua bán nợ:

Liên quan tới giao dịch mua bán nợ, có thể có một số hoạt động kinh doanh chuyên nghiệp như dịch vụ môi giới mua bán nợ, dịch vụ sàn giao dịch mua bán nợ và dịch vụ tư vấn mua bán nợ… Các hoạt động này giúp cho việc thúc đẩy và tăng hiệu quả của các hoạt động mua bán nợ, và là hoạt động kinh doanh chuyên nghiệp của các chủ thể nhất định (chuyên cung cấp các dịch vụ này cho khách hàng là chủ thể có nhu cầu mua, bán nợ) nhằm thu lợi nhuận. Và vì vậy đây có thể coi là ngành nghề kinh doanh “dịch vụ mua bán nợ”.

Tuy nhiên, bản thân các dịch vụ này chỉ giúp hỗ trợ cho giao dịch mua bán nợ, và khi mà bản thân giao dịch mua bán nợ không ảnh hưởng gì tới lợi ích công cộng thì các dịch vụ hỗ trợ giao dịch mua bán nợ cũng không có khả năng tác động tới các lợi ích công cộng.

Từ các lập luận trên, việc coi “dịch vụ mua bán nợ” là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện dường như là chưa phù hợp với tinh thần của Luật Đầu tư năm 2014, đặc biệt liên quan tới hoạt động mua bán nợ. Hơn nữa, Ban soan thảo cũng chưa giải trình nào có tính thuyết phục về việc cần thiết phải áp đặt điều kiện kinh doanh đối với hoạt động “mua bán nợ” ngoài lý do về mặt pháp lý như đã nêu ở trên (Chú ý là Luật Đầu tư nêu Danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng lại giao Chính phủ quy định cụ thể về các nội dung liên quan – điều này có thể được hiểu là chỉ những ngành nghề được nêu trong Danh mục tại Luật Đầu tư mới có thể được quy định điều kiện kinh doanh, nhưng không có nghĩa là cứ có tên trong Danh mục thì phải quy định điều kiện kinh doanh, có quy định hay không, quy định như thế nào tùy thuộc vào cân nhắc của Chính phủ).

  • Nên hạn chế hay khuyến khích hoạt động mua bán nợ?

“Nợ” là loại hàng hóa đặc biệt và không phải ai cũng muốn mua vì thực tế chỉ ra rằng, đòi nợ chưa khi nào là dễ dàng cả. Vì vậy, việc một chủ thể đứng ra chấp nhận mua một khoản nợ, chấp nhận những rủi ro về mình (có thể không đòi được nợ, phát sinh những tranh chấp từ khoản nợ) thì tại sao lại phải ràng buộc quá nhiều điều kiện để họ có thể mua được khoản nợ đó? Hơn nữa, dưới góc độ thị trường, thì cần các chủ thể mua những khoản nợ để khơi thông các dòng vốn, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nói riêng và môi trường kinh doanh nói chung.

Trong bối cảnh Chính phủ đang thúc đẩy cải cách, cắt giảm, đơn giản hóa về điều kiện kinh doanh, đề nghị Ban soạn thảo:

  • Bổ sung quy định bỏ hoàn toàn các điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ mua bán nợ tại Nghi định 69 (với căn cứ: Danh mục tại Luật Đầu tư là Danh mục ngành nghề mà Chính phủ có thể quy định điều kiện kinh doanh chứ không phải bắt buộc phải quy định về điều kiện kinh doanh;
  • Trường hợp hiểu rằng Danh mục tại Luật Đầu tư là Danh mục bắt buộc phải quy định điều kiện kinh doanh thì đề nghị (i) nêu kiến nghị loại bỏ hoạt động này ra khỏi Danh mục về ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Luật đầu tư 2014 và (ii) sửa đổi các quy định về điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ này theo hướng đơn giản, tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, cụ thể:
  1. Điều kiện đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ (Điều 7)
  • Bỏ điều kiện “có mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu là 100 tỷ đồng” (khoản 2)

Như phân tích về tính đặc thù của điều kiện về vốn pháp định, hoạt động dịch vụ này không có tính đặc thù trên. Hơn nữa, điều kiện về vốn với mức vốn quá lớn như quy định tại Nghị định 96 là cản trở rất lớn đối với các doanh nghiệp muốn tham gia vào lĩnh vực này.

  1. Điều kiện đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch nợ (Điều 8)
  • Phân tích tương tự trên, đề nghị bỏ các điều kiện về “có mức vốn điều lệ, vốn đầu tư tối thiểu là 500 tỷ đồng” (khoản 2); “Đã hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ ít nhất 01 năm và mức doanh thu hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ của năm liền kề trước năm thực hiện kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch tối thiểu là 500 tỷ đồng” (khoản 3).
  • Điều kiện “Có cơ sở, vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin phù hợp để tiếp nhận, cấp nhật, cung cấp thông tin về hoạt động mua bán nợ giữa các thành viên tham gia sàn giao dịch” (khoản 6). Quy định này là chưa rõ ràng, vì không rõ như thế nào được cho là “phù hợp”. Điều này có thể gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định rõ về các điều kiện này, trong trường hợp không quy định cụ thể được, đề nghị bỏ.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

[1] Vì thời hạn yêu cầu ngắn (ngày nhận Công văn 04/7/2018, ngày yêu cầu trả lời trước 09/7/2018) nên VCCI không có thời gian để triển khai lấy ý kiến doanh nghiệp rộng rãi. Các ý kiến tại văn bản này là trên cơ sở nghiên cứu của cán bộ VCCI

[2] Một trong những giải trình liên quan đến vốn điều lệ của công ty thông tin tín dụng trong Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định về hoạt động thông tin tín dụng tháng 03/2018.

[3] Trong Dự thảo Hồ sơ đề nghị xây dựng Dự thảo Nghị định vè hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước gửi lấy ý kiến VCCI

[4] Công văn số 0604/PTM-PC của VCCI ngày 22/3/2016 gửi Ngân hàng Nhà nước về việc góp ý Dự thảo Nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ