VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 104/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc kinh doanh dịch vụ đòi nợ

Thứ Hai 13:18 10-09-2018

Kính gửi: Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính – Bộ Tài chính

Trả lời Công văn số 9394/BTC-TCNH của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 104/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc kinh doanh dịch vụ đòi nợ (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

  1. Về trách nhiệm, quyền hạn của chủ nợ và khách nợ (khoản 4 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 8 Nghị định 104)

So với quy định hiện hành, Dự thảo đã bỏ quy định “trách nhiệm, quyền hạn của chủ nợ và khách nợ: không chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ vi phạm pháp luật” (khoản 9 Nghị định 104) vì lý do “trên thực tế, một số chủ nợ có yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ thực hiện đòi nợ bằng các hành vi cấm như đe dọa, sử dụng vũ lực … gây mất an ninh, trật tự xã hội. Do đó, trong một số trường hợp, chủ nợ phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ vi phạm pháp luật[1]”.

Việc bỏ quy định tại khoản 9 Điều 8 Nghị định 104 với lý do trên dường như chưa hợp lý, bởi:

  • Xác định chủ thể chịu trách nhiệm:

Từ góc độ pháp lý, trong hoạt động cung cấp dịch vụ đòi nợ, doanh nghiệp đòi nợ bằng nghiệp vụ sẽ đòi các khoản nợ cho khách hàng của mình và được hưởng phí đòi nợ. Đây được xem là hoạt động cung cấp dịch vụ. Tương tự như các hoạt động cung cấp dịch vụ khác, doanh nghiệp đòi nợ sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật đối với hoạt động cung cấp dịch vụ của mình. Về phía chủ nợ, với tư cách là khách hàng của doanh nghiệp đòi nợ, chủ nợ có quyền được nhận về khoản nợ đòi được và có nghĩa vụ phải trả phí cho doanh nghiệp đòi nợ. Nói cách khác, về mặt pháp lý, trong quan hệ này, chủ nợ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ gì đối với cách thức thực hiện dịch vụ mà doanh nghiệp đòi nợ thực hiện.

Trên thực tế, có thể xảy ra tình huống như Ban soạn thảo lo ngại, theo đó chủ nợ yêu cầu/hướng dẫn/khuyến khích doanh nghiệp đòi nợ thực hiện các hành vi bất hợp pháp (đe dọa, sử dụng vũ lực…) để đòi nợ. Mặc dù vậy, ngay cả khi xảy ra tình huống như vậy, về mặt pháp luật, doanh nghiệp đòi nợ không được và cũng không thể chấp nhận các yêu cầu này, bởi họ có nghĩa vụ thực hiện việc đòi nợ theo đúng quy định pháp luật, Nói cách khác, chủ nợ có thể yêu cầu hoặc khuyến nghị cách thức thực hiện đòi nợ, nhưng việc có chấp nhận hay không là trách nhiệm của doanh nghiệp. Do đó, trường hợp doanh nghiệp đòi nợ thực hiện việc đòi nợ theo cách thức pháp luật cấm thì doanh nghiệp vẫn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với việc này, không quan trọng là hành vi này xuất phát từ gợi ý hay yêu cầu của ai.

Hơn nữa, bản thân Tờ trình cũng đã khẳng định về tính chịu trách nhiệm của doanh nghiệp đòi nợ, đó là “trên phương diện kinh doanh, kinh doanh dịch vụ đòi nợ cũng như hoạt động kinh doanh thông thường khác, tự chủ về hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của mình”[2]. Chủ nợ – với tư cách là khách hàng, sẽ không phải chịu trách nhiệm với bên cung cấp dịch vụ, bởi về mặt nguyên tắc, họ không thể kiểm soát/can thiệp được các hoạt động của bên cung cấp dịch vụ.

Từ góc độ thực tiễn, nếu gắn trách nhiệm của khách hàng với bên cung cấp dịch vụ, thì sẽ không có khách hàng nào muốn sử dụng dịch vụ đòi nợ, vì nhiều trường hợp sẽ phải chịu thiệt hại đối với những hoạt động của bên đòi nợ.

Để đảm bảo tính hợp lý và minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo giữ nguyên quy định tại khoản 9 Điều 8 Nghị định 104, tức là “khách nợ và chủ nợ: không chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi mà doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ vi phạm pháp luật”.

  1. Về điều kiện kinh doanh (khoản 9, 10 Điều 1 Dự thảo sửa đổi Điều 13, 14 Nghị định 104)

Tờ trình[3] có giải trình “Kinh doanh dịch vụ đòi nợ là ngành nghề nhạy cảm trên phương diện an ninh, trật tự do các sai phạm chủ yếu của doanh nghiệp kinh doanh đòi nợ hiện nay là các sai phạm về an ninh, trật tự (doanh nghiệp sử dụng các biện pháp thu hồi nợ bất hợp pháp kiểu “xã hội đen”). Trên phương diện kinh doanh, kinh doanh dịch vụ đòi nợ cũng như hoạt động kinh doanh thông thường khác, tự chủ về hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của mình”. Theo nội dung này thì yếu tố quan trọng nhất tác động đến lợi ích công cộng, cần phải quản lý đối với hoạt động cung cấp dịch vụ đòi nợ là “an ninh, trật tự”.

Đứng từ góc độ tính chất và tác động của dịch vụ này, quan ngại về nguy cơ an ninh trật tự là hoàn toàn hợp lý và do đó việc kiểm soát hoạt động kinh doanh này từ góc độ “an ninh, trật tự” là cần thiết. Mặc dù vậy, hiện tại, ngành nghề này được xác định là ngành nghề phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định tại Nghị định 96/2016/NĐ-CP. Như vậy, yếu tố tác động đến “an ninh, trật tự”, vấn đề quan trọng nhất cần quan tâm đối với ngành nghề này, đã được kiểm soát thông qua Giấy chứng nhận nói trên.

Do đó, cần đánh giá lại các điều kiện kinh doanh đang thiết kế đối với ngành, nghề dịch vụ đòi nợ ở Nghị định này trong bối cảnh nói trên để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước.

  1. Điều kiện về vốn (sửa đổi Điều 13 Nghị định 104)

So với Nghị định 104 thì Dự thảo điều chỉnh khái niệm từ “vốn pháp định” thành “vốn điều lệ” và vẫn giữ nguyên mức vốn là 2.000.000.000 đồng. Ban soạn thảo cũng không giải trình cụ thể về lý do và mục tiêu về việc yêu cầu mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ.

Trong các văn bản góp ý trước đây liên quan đến điều kiện kinh doanh của dịch vụ đòi nợ, VCCI cho rằng điều kiện về vốn của hoạt động kinh doanh này là chưa phù hợp với mục tiêu khi quy định về điều kiện kinh doanh, cụ thể:

  • Không rõ tại sao doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ lại phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định? Nếu không có đủ nguồn vốn này thì các lợi ích công cộng nào sẽ bị tác động? Không nhận thấy tác động đáng kể nào từ hoạt động kinh doanh này liên quan đến lợi ích công cộng;
  • Xét bản chất, mối quan hệ giữa chủ nợ và doanh nghiệp đòi nợ được xác lập trên cơ sở các thỏa thuận tư. Những rủi ro phát sinh từ hoạt động đòi nợ (doanh nghiệp đòi nợ không trả lại số tiền nợ đã đòi được từ con nợ cho chủ nợ) thì sẽ được giải quyết tranh chấp trên cơ sở hợp đồng của hai bên, khoản tiền vốn pháp định mà doanh nghiệp phải đáp ứng sẽ không phải là yếu tố đảm bảo cho quyền lợi của chủ nợ (đó là chưa kể, khoản nợ có thể lớn hơn rất nhiều con số 2 tỷ đồng). Đối với mục tiêu đảm bảo an ninh trật tự (vấn đề đang được xem là cơ bản, cần phải quản lý đối với hoạt động kinh doanh này), chưa có bằng chứng nào rõ ràng về việc những doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế sẽ đảm bảo tuân thủ pháp luật về an ninh trật tự hơn là các doanh nghiệp không có tiềm lực kinh tế.

Vì vậy các lý do trên, việc áp đặt điều kiện về vốn ban đầu của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ là chưa hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định này.

  1. Về điều kiện đối với người quản lý và giám đốc chi nhánh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ (Điều 14 Nghị định 104 được sửa đổi)

Dự thảo kế thừa quy định tại Nghị định 104 về việc quy định điều kiện đối với người quản lý và giám đốc chi nhánh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Tuy nhiên, cần xem xét lại điều kiện này ít nhất ở góc độ sau:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Dự thảo thì doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định của Chính phủ về điều kiện an ninh trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Để có được Giấy chứng nhận này, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ đã phải đáp ứng các điều kiện đối với người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự (Điều 7, 10 Nghị định 96/2016/NĐ-CP). Trong nhiều trường hợp thì người chịu trách nhiệm về an ninh trật tự của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ chính là người quản lý/giám đốc của doanh nghiệp. Hơn nữa, từ góc độ hiệu quả quản lý, việc kiểm soát người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của doanh nghiệp đòi nợ sẽ hiệu quả hơn so với kiểm soát người quản lý và giám đốc chi nhánh của doanh nghiệp. Như vậy, việc đặt điều kiện đối với người quản lý và giám đốc chi nhánh trong Nghị định này có lẽ là không cần thiết,  chồng lấn với quy định tại Nghị định 96/2016/NĐ-CP.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định này.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 104/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

[1] Trang 7 Tờ trình

[2] Trang 8 Tờ trình

[3] Trang 8