VCCI góp ý về Phối hợp rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.

Thứ Sáu 14:06 28-10-2016

Kính gửi: Ủy ban Tư pháp của Quốc hội

Trả
lời đề nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về việc rà soát tổng thể Bộ luật
Hình sự năm 2015, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý
kiến góp ý như sau:

1.      Vấn đề hình sự hóa quan hệ dân sự
kinh tế

Trước
tiên phải khẳng định, việc quy định và trừng phạt các tội phạm kinh tế là cần
thiết để duy trì một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, giúp loại bỏ
các hành vi gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hay gây ô nhiễm
môi trường… gây thiệt hại cho xã hội. Nếu các biện pháp trừng phạt phù hợp
không được áp dụng sẽ khiến các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh không thể cạnh
tranh với các doanh nghiệp vi phạm, từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững của quốc gia. Do đó, việc xây dựng các tội danh kinh
tế một cách minh bạch, hợp lý có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt
Nam.

Trong
quá trình xây dựng các quy định của Bộ luật Hình sự về các tội phạm liên quan đến
doanh nghiệp và doanh nhân thì cần lưu ý tránh “hình sự hóa các quan hệ
dân sự, kinh tế”. Các quan hệ dân sự kinh tế đề cập ở đây cần thỏa mãn các
điều kiện gồm (1) có sự đồng thuận chung cả các bên tham gia; (2) không bên nào
bị đe dọa, cưỡng ép; (3) các bên tham gia trên cơ sở thông tin đầy đủ, chính
xác, không bên nào bị lừa dối, che giấu thông tin; và (4) không làm thiệt hại đến
quyền lợi của bên thứ ba. Đối với các trường hợp này, pháp luật nói chung nên hạn
chế can thiệp, và Bộ luật Hình sự nói riêng không nên “hình sự hóa”.

Một
số ý kiến thường nhầm lẫn cho rằng chỉ cần có quan hệ dân sự kinh tế, thể hiện
thông qua các hợp đồng, thỏa thuận, thì không nên hình sự hóa. Tuy nhiên, nếu hợp
đồng đó được quyết định khi một bên bị đe dọa, cưỡng bức, ép buộc thì không thể
coi đó là lý do để không quy định tội phạm. Một trường hợp phổ biến hiện nay là
khi một bên cố ý cung cấp thông tin sai lệch, hoặc cố ý im lặng để bên còn lại
hiểu nhầm về hợp đồng, từ đó mà chấp nhận tham gia thì cũng không thể coi là
quan hệ dân sự kinh tế một cách đúng nghĩa. Đối với những hành vi đó, nếu chúng
diễn ra phổ biến hoặc có tác hại lớn đến xã hội thì có thể cân nhắc quy định
trách nhiệm hình sự.

Với
cách tiếp cận như vậy, VCCI cho rằng cần loại bỏ, phi hình sự hóa một số tội
danh trong Bộ luật Hình sự nếu các quan hệ dân sự, kinh tế thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện trên (các tội danh cụ thể được đề cập ở phần sau).

2.      Quyết định hình phạt (Điều 50)

Một
trong những mục đích quan trọng nhất của hình phạt là giáo dục người, pháp nhân
thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm (Điều
30, Bộ luật Hình sự). Để cụ thể hóa mục đích này, cần xác định đặc điểm của các
tội phạm trong lĩnh vực doanh nghiệp, doanh nhân là thường có mục tiêu chính là
vì lợi nhuận, lợi ích kinh tế, thường được thực hiện bởi các cá nhân có trình độ,
và cũng thường được tính toán, cân nhắc kỹ hơn so với các loại tội phạm khác. Ví
dụ, một người trước khi thực hiện hành vi khai báo thuế sẽ tính toán lợi ích
kinh tế thu được, mức chế tài xử lý khi bị phát hiện và dự liệu cả xác suất bị
phát hiện khi phạm tội trốn thuế. Nếu “cái được” lớn hơn “cái mất”
thì sẽ là động lực để cá nhân đó phạm tội và ngược lại.

Do
đó, việc xác định hình phạt đối với tội phạm kinh tế dựa trên lợi
ích kinh tế thu được từ hành vi phạm tội
là rất quan trọng. Trong
khi đó, theo Điều 50 của Bộ luật Hình sự, việc quyết định hình phạt đối với một
tội phạm dựa trên 4 yếu tố chính (1) quy định của Bộ luật Hình sự; (2) tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; (3) nhân thân người phạm tội;
và (4) các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng. Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
tại Điều 51 và 52 cũng không quy định về lợi ích kinh tế thu được từ hành vi. Do
đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
sửa đổi Bộ luật như sau:


Thứ nhất, bổ sung yếu tố “lợi ích
kinh tế thu được từ hành vi phạm tội” vào Điều 50 và Điều 83 của Bộ luật
Hình sự. Yếu tố này sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thêm căn cứ để quyết
định hình phạt một cách chính xác hơn, có tác dụng răn đe, giáo dục tốt hơn.


Thứ hai, bổ sung các yếu tố lợi ích kinh tế thu được từ hành vi phạm
tội
làm tình tiết tăng nặng tại các Điều 52 và Điều 85 của Bộ luật Hình
sự. Trong trường hợp yếu tố thu lợi bất chính đã được sử dụng để định khung thì
sẽ không coi là tình tiết tăng nặng.


Thứ ba, nghiên cứu cân nhắc việc cho
phép xác định hình phạt tiền theo phương pháp tương đối, tức là gấp nhiều lần số
lợi bất chính thu được, đặc biệt đối với các hành vi ở khung cao nhất đối với
các tội danh có quy định về số lợi bất chính làm căn cứ định tội, định khung.

3.      Nguồn của luật hình sự và phương
pháp xây dựng Bộ luật Hình sự

Pháp
luật hình sự của Việt Nam chỉ cho phép các tội danh được thể hiện trong Bộ luật
Hình sự, mà không cho phép các đạo luật khác của Quốc hội quy định về tội phạm
và hình phạt. Phương pháp này có điểm mạnh là khiến cho nguồn của pháp luật
hình sự dễ tra cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc tiếp cận,
và tránh sự lạm quyền của một số cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, qua thời gian dài
áp dụng, phương pháp này bộc lộ một số điểm bất cập:

Thứ
nhất, mục tiêu tạo điều kiện cho người dân trong việc tiếp cận có vẻ như chỉ
phù hợp với các tội phạm truyền thống. Còn đối với các tội phạm phi truyền thống,
chủ thể phạm tội thường là người có chuyên môn, nghiệp vụ nhất định thì mục
tiêu này không đạt được. Ví dụ, tội vi phạm quy định về hoạt động tín dụng thì
chủ yếu áp dụng cho các cá nhân làm việc trong hoặc liên quan đến ngân hàng. Những
cá nhân này có xu hướng tìm hiểu pháp luật chuyên môn trong lĩnh vực của mình
(Luật Tổ chức tín dụng) hơn là tra cứu Bộ luật Hình sự.

Thứ
hai, theo cách tiếp cận hiện nay, việc sửa đổi Bộ luật Hình sự thường lệch về mặt
thời điểm so với các đạo luật trong các lĩnh vực khác. Trong 3 yếu tố cấu thành
của quy phạm pháp luật (giả định, quy định và chế tài), việc tách riêng chế tài
hình sự khiến các chính sách khó đi vào cuộc sống. Ví dụ, khi Quốc hội ban hành
Luật An toàn thực phẩm nhằm chống lại thực phẩm bẩn nhưng lại không thể sửa đổi
ngay quy định về tội phạm đối với hành vi sử dụng chất cấm trong chế biến thực
phẩm. Điều này khiến một chính sách bị cắt rời, không đồng bộ, các biện pháp
hình sự không được sử dụng để thực thi chính sách kinh tế, xã hội. Thậm chí, điều
này khiến các cơ quan nhà nước tránh né sử dụng biện pháp hình sự mà tập trung
nhiều vào các biện pháp hành chính. Điều này khiến các ưu điểm của biện pháp
hình sự không được phát huy hiệu quả như minh bạch hơn, trình tự tố tụng tốt
hơn so với hành chính.

Thứ
ba, các cán bộ phụ trách lĩnh vực hình sự khó có thể có kiến thức sâu trong các
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, môi trường… nên việc miêu tả hành
vi thường mang tính chung chung như: “vi
phạm các quy định quản lý trong lĩnh vực… gây hậu quả nghiêm trọng
“.
Cách miêu tả hành vi chung chung như vậy vừa gây khó hiểu cho người dân, gây
khó cho quá trình áp dụng của cơ quan tố tụng, lại là trao quyền cho cán bộ thực
thi. Chính điều này khiến cho nguy cơ “hình sự hóa quan hệ dân sự kinh tế”
trong quá trình thực thi bị đẩy lên cao nếu cán bộ thực thi không đủ năng lực
chuyên môn hoặc có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng.

            Do đó, về lâu dài, để có thể hoàn
thiện hệ thống pháp luật hình sự đáp ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội,
đề nghị cơ quan soạn thảo sửa
đổi Điều 8.1 của Bộ luật Hình sự để cho phép xây dựng các tội danh tại các đạo
luật khác. Trường hợp có lo ngại về việc có thể nảy sinh quá nhiều tội danh tại
nhiều đạo luật khác thì quy định liệt kê rõ các đạo luật được phép quy định về
tội danh như Luật An toàn thực phẩm, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Chứng khoán,
Luật Tổ chức tín dụng… Trong quá trình soạn thảo các điều khoản về tội danh
trong các luật chuyên ngành này, cần có sự tham gia chặt chẽ của cán bộ chuyên
ngành tư pháp. Trong quá trình áp dụng thì vẫn tuân theo các nguyên tắc chung của
Bộ luật Hình sự.

4.      Hình phạt tịch thu tài sản (Điều
45)

Điều
45 của Bộ luật quy định về hình phạt tịch thu tài sản “Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn
bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.

Mặc dù có giới hạn về mức tịch thu (vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ
có điều kiện sinh sống) và trường hợp tịch thu (59 tội danh) nhưng đây vẫn là một
hình phạt chưa được làm rõ, nhất là việc trùng lặp với hình phạt tiền với tư
cách là hình phạt bổ sung (Điều 32.2).

Tịch
thu tài sản và phạt tiền giống nhau ở chỗ đều là việc yêu cầu người phạm tội phải
nộp một số tiền hoặc tài sản vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hình phạt tiền
có định lượng rõ ràng đối với từng hành vi, số tiền phạt tương ứng với mức độ vi
phạm của người đó, còn tịch thu tài sản thì không có định lượng, cũng không
tương ứng với mức độ vi phạm.

Việc
xử lý hình sự cần tôn trọng nguyên tắc “vi phạm đến đâu, xử lý đến
đó” và mức phạt phải được thể hiện rõ trong quy định của pháp luật. Do đó,
đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ
quy định về việc tịch thu tài sản của người phạm tội chuyển toàn bộ sang hình
phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung.

5.      Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và Tội vô ý gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 179 và Điều 180)

Điều
179 và Điều 180 về các Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tài sản có điểm chung là xử lý hình sự đối với hành vi vô ý gây thiệt hại về
tài sản cho người khác, mức khởi điểm xử hình sự là tài sản có giá trị từ 100
triệu đồng trở lên. Đây là các tội danh đã có từ Bộ luật Hình sự cũ và hiện nay
vẫn được duy trì trong Bộ luật Hình sự 2015.

Trên
thực tế, các hành vi vô ý gây thiệt hại cho tài sản có thể diễn ra rất đa dạng
và không quá hiếm gặp trong xã hội, từ việc một nhân viên bảo vệ lơ là, không
hoàn thành trách nhiệm gây mất mát, hư hỏng tài sản của người thuê bảo vệ, hay
các tai nạn, sự cố xảy ra do lỗi của con người gây thiệt hại cho máy móc thiết
bị, phương tiện có giá trị. Trong những trường hợp này, người vô ý gây thiệt hại
sẽ phải bồi thường theo quy định pháp luật dân sự và nếu việc bồi thường đã được
thực hiện, bên bị thiệt hại cũng không có yêu cầu gì thêm thì việc xử lý hình sự
đúng là hiện tượng “hình sự hóa quan hệ dân sự kinh tế”.

Trong
một số trường hợp, thiệt hại có thể trở nên rất lớn nằm ngoài khả năng bồi thường
của người gây thiệt hại. Tuy nhiên, việc quy định xử lý hình sự đối với các
hành vi vô ý này cũng không mang lại lợi ích nào rõ ràng cho xã hội, người vi
phạm cũng không cần thiết phải cách lý khỏi xã hội. Thiết nghĩ, các trường hợp
này nên áp dụng biện pháp dân sự để hai bên xác định biện pháp bồi thường hợp
lý hơn là việc xử lý hình sự. Do đó, VCCI đề
nghị cơ quan soạn thảo
bỏ hai Tội danh tại Điều 179 và Điều 180 Bộ luật
Hình sự.

6.      Tội buôn lậu (Điều 188)

Yếu
tố định lượng của tội buôn lậu hiện nay là dựa vào giá trị hàng hóa (từ 100 triệu
đồng trở lên) hoặc loại hàng hóa (tiền, phương tiện trung gian thanh toán, di vật,
cổ vật…). Trên thực tế, hành vi buôn lậu diễn ra với hai trường hợp, gồm (1) đối
với những hàng hóa, vật phẩm không được phép mang ra khỏi biên giới; và (2) đối
với hàng hóa khác nhằm mục đích trốn thuế (các loại thuế thu đối với hàng hóa
nhập khẩu, xuất khẩu). Đối với trường hợp đầu tiên, quy định như hiện tại của Bộ
luật đã đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, đối với trường hợp thứ
hai, việc căn cứ vào giá trị hàng hóa là chưa phù hợp mà còn cần xác định dựa
trên số tiền thuế trốn được. Hiện nay, tội trốn thuế áp dụng mức khởi điểm với
số tiền thuế trốn được là 100 triệu đồng. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
sửa đổi Điều 188 theo hướng trong trường hợp buôn lậu hàng hóa vẫn được phép
lưu thông nhưng nhằm mục đích trốn thuế thì đề nghị xác định mức giá trị khởi
điểm theo số tiền thuế trốn được từ 100 triệu đồng trở lên.

7.      Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới (Điều 189)

Hiện
nay, các đối tượng buôn lậu tại biên giới thường chia hàng hóa thành các gói nhỏ
để vận chuyển qua biên giới. Những trường hợp này gây khó khăn cho các cơ quan
chức năng trong việc xử lý. Nếu căn cứ vào từ ngữ trong Bộ luật thì chỉ xử lý
người vận chuyển chứ không xử lý người thuê vận chuyển, tổ chức việc vận chuyển.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
bổ sung các từ “thuê vận chuyển hoặc tổ chức việc vận chuyển” vào yếu
tố hành vi tại Điều 189.

8.      Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều
190)

Điều
190 xác định tội phạm đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm
kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép
sử dụng tại Việt Nam trong trường hợp hàng hóa là thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật. Dự thảo Bộ luật Hình sự bỏ từ “cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy
sản và muối;”. Quy định này có thể sẽ dẫn đến nguy cơ xử lý hình sự đối với
cả những người sản xuất, cung ứng một lượng nhỏ các hàng hóa trên nhằm mục đích
thử nghiệm. Ví dụ, một cá nhân nghiên cứu khoa học tự mình phát triển một loại
thuốc bảo vệ thực vật sinh học chưa được đăng ký lưu hành và cung cấp thử nghiệm
cho một vài hộ gia đình trồng trọt để xem xét hiệu quả của thuốc. Do đó, đề nghị
cơ quan soạn thảo cân nhắc loại trừ việc xử lý hình sự đối với các hành vi sản
xuất thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật chưa được phép lưu hành, sử dụng nhằm mục
đích nghiên cứu, thử nghiệm.

9.      Tội lừa dối khách hàng (Điều 198)

Về
bản chất, Tội sản xuất, buôn bán hàng giả và Tội lừa dối khách hàng có nhiều điểm
đồng nhau, đều là hành vi cung cấp thông tin không chính xác hoặc không cung cấp
thông tin để người mua hiểu nhầm về tính năng, công dụng của hàng hóa, dịch vụ,
từ đó mà mua hàng hoặc trả nhiều tiền hơn cho hàng hóa, dịch vụ đó. Đối với
hàng giả thì hành vi lừa dối này thể hiện ngay trên mặt hàng đó với số lượng lớn,
còn đối với hành vi lừa đối khách hàng thì có thể được thực hiện bằng nhiều thủ
đoạn khác. Do đó, có thể coi hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là một trường
hợp cụ thể của hành vi lừa dối khách hàng.

Tuy
nhiên, do Điều 198 về lừa dối khách hàng rất chung chung, không thuận lợi cho
quá trình thực thi. Hơn nữa, Điều 198 rất khó áp dụng để xử lý trường hợp nhà
cung cấp lừa dối mỗi khách hàng một giá trị nhỏ, nhưng do có nhiều khách hàng
nên tổng cộng giá trị lại rất lớn, bởi việc chứng minh giá trị thu lời bất
chính này rất khó khăn. Với các lý do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, cụ thể hóa Điều
198 này nhằm thể hiện chính sách chống gian lận thương mại. Một số giải pháp cụ
thể như sau:


Quy định rõ hành vi lừa dối khách hàng
là hành vi “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật hoặc cố ý im lặng để khách
hàng hiểu nhầm về khối lượng, số lượng, tính chất, công dụng, chất lượng, giá
thành, nguồn gốc, thành phần, dịch vụ đi kèm hoặc các thông tin khác của hàng
hóa, dịch vụ thuộc một trong các trường hợp sau đây…”


Tách riêng và quy định rõ hành vi cố ý
can thiệp, làm sai lệch thiết bị đo hoặc điều khiển thiết bị, hệ thống đo đạc,
tính toán số lượng, khối lượng, chất lượng, giá thành hoặc đặc tính khác của
hàng hóa, dịch vụ nhằm lừa dối khách hàng. Ví dụ như việc can thiệp vào đồng hồ
tính cước taxi, cột bơm xăng có thể mang lại lợi nhuận rất lớn cho nhà cung cấp.


Quy định rõ hành vi tự động trừ tiền
trên tài khoản, hoặc tính chi phí hàng hóa, dịch vụ tăng thêm mà không có sự đồng
ý của khách hàng hoặc không thông báo cho khách hàng. Do hiện nay có nhiều dịch
vụ đòi hỏi người tiêu dùng phải trả trước, nộp tiền vào tài khoản do bên cung cấp
dịch vụ quản lý và làm nảy sinh các hành vi lừa dối khách hàng.

10. Tội cho vay lãi nặng (Điều 201)

Điều
201 về Tội cho vay lãi nặng xác định hành vi dựa trên hai căn cứ chính là (1)
lãi suất cao gấp 05 lần lãi suất cao nhất trong Bộ luật Dân sự; và (2) thu lợi
bất chính từ 30 triệu đồng trở lên. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 thì
lãi suất để bắt đầu truy cứu trách nhiệm hình sự là 100%/năm.

Trên
thực tế, hiện tượng cho vay với lãi suất cao hiện vẫn diễn ra tương đối phổ biến
trong nền kinh tế. Hiện nay, các ngân hàng thường không cho vay các khoản vay
giá trị nhỏ, thời gian ngắn do không đáp ứng được điều kiện của các hoạt động
ngân hàng. Do đó, người cần vay vẫn buộc phải tìm đến những người cho vay ngắn
ngày, thủ tục đơn giản, linh hoạt, đổi lại phải chịu lãi suất cao. Đây là hoạt
động bình thường khi mà nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều các doanh nghiệp, hộ
kinh doanh cá thể với quy mô rất nhỏ. Theo ước đoán, hoạt động kinh tế của nhóm
này đang chiếm khoảng 23% tổng GDP của Việt Nam.

Về
bản chất, dù lãi suất cao nhưng đây vẫn là quan hệ hợp đồng tự do thỏa thuận,
mang đầy đủ các đặc điểm như đã phân tích trên, gồm (1) có sự đồng thuận chung
cả các bên tham gia; (2) không bên nào bị đe dọa, cưỡng ép; (3) các bên tham
gia trên cơ sở thông tin đầy đủ, chính xác, không bên nào bị lừa dối, che giấu
thông tin; và (4) không làm thiệt hại đến quyền lợi của bên thứ ba. Nhà nước chỉ
nên hình sự hóa hành vi khi bên cho vay đe dọa, cưỡng ép để đòi nợ.

Hiện
nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thu hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối
với hành vi cho vay lãi nặng mà thay vào đó là áp dụng các biện pháp quản lý
khác. Ví dụ, tại Anh, nếu khoản vay có lãi suất cao hơn mức nhất định, người đi
vay không có nghĩa vụ phải trả tiền cho người cho vay. Tại Mỹ, những người hành
nghề cho vay những khoản nhỏ này phải đáp ứng điều kiện kinh doanh và phải đăng
ký với cơ quan nhà nước, thường xuyên báo cáo về hoạt động cho vay (hoạt động tài
chính vi mô). Việc xử phạt (hành chính hoặc hình sự) đối với hành vi cho vay
lãi nặng tại các quốc gia này chỉ đặt ra khi người cho vay không đăng ký, báo
cáo với cơ quan nhà nước; có hành vi đe dọa, sử dụng vũ lực hoặc các biện pháp
khác để đòi nợ; hoặc có liên quan đến việc rửa tiền, tiêu thụ tài sản trộm cắp
(đối với dịch vụ cầm đồ). Đây đều là những cách làm rất khoa học, vẫn bảo đảm
ngăn ngừa các tác động xấu của việc cho vay lãi nặng, nhưng đồng thời duy trì
các lợi ích từ sự linh hoạt và tiện lợi của dịch vụ tín dụng này.

Với
các lý do đó, đề nghị Cơ quan soạn thảo
thu hẹp phạm vi xử lý Tội cho vay lãi nặng. Cụ thể, chỉ truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi cho vay lãi nặng khi:


Người cho vay với lãi suất cao thực hiện
hoạt động cho vay một cách thường xuyên, liên tục, vì mục đích thu lợi mà không
có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh ngành nghề tổ chức tài chính vi mô.


Người cho vay với lãi suất cao sử dụng
vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người vay
tiền để đòi nợ.

Đi
kèm với việc sửa đổi Tội cho vay lãi nặng như vậy, cần tiến hành xây dựng, sửa
đổi và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô theo Luật
các tổ chức tín dụng.

11. Tội lập quỹ trái phép (Điều 205)

Tội
danh lập quỹ trái phép có quy định yếu tố hành vi “lập quỹ trái quy định của
pháp luật”. Miêu tả hành vi này rất khó xác định, không rõ quy định của
pháp luật về việc lập quỹ được thể hiện trong văn bản nào để người dân biết và
thực hiện theo. Hơn nữa, hiện nay các tội phạm tham nhũng, tội phạm liên quan đến
tài sản Nhà nước đã được quy định rõ ràng, phù hợp hơn trước đây, bảo đảm bao
quát các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, việc duy trì Tội lập quỹ trái
phép trong Bộ luật Hình sự không còn phù hợp, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ tội danh này.

12. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216)

Nghĩa
vụ đóng bảo hiểm cho người lao động là nghĩa vụ tài chính bắt buộc mà doanh
nghiệp phải thực hiện, tương tự như nghĩa vụ thuế. Sự khác biệt nằm ở chỗ thuế
thì nộp vào ngân sách nhà nước còn bảo hiểm thì nộp vào Quỹ bảo hiểm xã hội. Đối
với nghĩa vụ thuế, doanh nghiệp phải thực hiện 2 bước gồm kê khai thuế và nộp
tiền vào ngân sách. Tội danh trốn thuế chỉ xử lý đối với trường hợp có gian lận
trong việc kê khai thuế chứ không xử lý đối với sai phạm trong hành vi nộp tiền
vào ngân sách. Điều này là hợp lý vì doanh nghiệp đã trung thực trong việc kê
khai thuế nhưng vì nhiều lý do khác nhau chưa nộp tiền về ngân sách thì chỉ được
coi là nợ thuế, chứ không được coi là trốn thuế. Nhà nước chỉ tiến hành đòi tiền
thuế như một khoản nợ với lãi suất chậm nộp và nhiều biện pháp đòi nợ, chứ
không xử lý hình sự.

Tuy
nhiên, đối với Tội trốn đóng bảo hiểm thì căn cứ để xử lý lại là hành vi “gian
dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định
từ 06 tháng trở lên”. Việc xác định hành vi này có nguy cơ nhầm lẫn giữa “trốn”
và “nợ” nghĩa vụ tài chính. Trong trường hợp doanh nghiệp ghi sổ sách
và khai báo nghĩa vụ nộp bảo hiểm của mình một cách đầy đủ, chính xác, trung thực
nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà chậm nộp tiền bảo hiểm quá hạn 06 tháng thì vẫn
có thể bị xử lý hình sự. Trong khi đó, cơ quan bảo hiểm vẫn có thể tiến hành
đòi nợ doanh nghiệp như một khoản nợ bình thường khác thông qua các biện pháp
bao gồm cả Tòa án dân sự. Đây có lẽ là khoản nợ duy nhất trong hệ thống pháp luật
Việt Nam có áp dụng chế tài hình sự nếu quá hạn trả nợ.

Do
đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
sửa đổi quy định theo hướng chỉ xử lý hình sự đối với hành vi doanh nghiệp gian
dối khi khai báo nghĩa vụ nộp bảo hiểm, còn việc nợ tiền bảo hiểm thì không xử
lý hình sự.

13. Tội vi phạm quy định về hoạt động
bán đấu giá tài sản (Điều 218)

Điều
218 đã liệt kê 3 hành vi vi phạm quy định về bán đấu giá tài sản từ góc độ của
người tham gia đấu giá, gồm (1) Lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản
bán đấu giá; (2) Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt động bán đấu giá tài
sản; (3) Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
Song trên thực tế, các hành vi trục lợi từ hoạt động bán đấu giá tài sản hiện
nay không chỉ giới hạn tại các hành vi đó và đặc biệt là có yếu tố gian lận từ
đơn vị tổ chức đấu giá. Hơn nữa, hoạt động đấu giá và đấu thầu có nhiều nét
tương đồng với nhau, nhưng việc mô tả hành vi của hai tội danh này khác hẳn
nhau. Tội về đấu giá thì liệt kê 3 hành vi rất chi tiết nhưng có nguy cơ thiếu
sót, còn Tội về đấu thầu thì mô tả hành vi rất chung chung như “thông thầu,
gian lận trong đấu thầu, vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng,
minh bạch trong hoạt động đấu thầu”. VCCI cho rằng cách thể hiện của Tội về
đấu thầu (Điều 222) phù hợp hơn. Tuy nhiên, sau này vẫn cần có hướng dẫn cụ thể
nhằm xác định chính xác các hành vi gian lận, hay không công bằng, minh bạch
trong các hoạt động này.

14. Tội vi phạm quy định về đầu tư công
trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224)

Điều
224 Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
có đoạn mô tả hành vi “quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của
Luật xây dựng”. Điều 60 của Luật Xây dựng xác định thẩm quyền quyết định đầu
tư xây dựng đối với dự án không sử dụng nguồn “vốn ngân sách nhà nước, vốn
công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước
ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để
lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay
khác của ngân sách địa phương để đầu tư” hoặc “vốn tín dụng do Chính
phủ bảo lãnh, vốn vay được bảo đảm bằng tài sản nhà nước, vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước, vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, giá trị
quyền sử dụng đất của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước góp vốn để đầu tư
xây dựng” thì thuộc về chủ sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu. Nói cách khác,
nếu chủ một doanh nghiệp không có vốn nhà nước quyết định đầu tư xây dựng một
công trình mà không thực hiện đầy đủ các yêu cầu của Luật Xây dựng thì cũng có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Quy
định này rõ ràng là vượt quá mục tiêu chính sách của pháp luật hình sự. Việc quản
lý dự án xây dựng là nhằm hai mục đích (1) chống thất thoát, lãng phí tài sản
nhà nước; và (2) đảm bảo an toàn xây dựng, an toàn công trình. Mục tiêu thứ 2
đã được xử lý tại Điều 298 Bộ luật Hình sự. Điều 224 chỉ nên xử lý đối với các
trường hợp vi phạm đối với dự án đầu tư xây dựng có sử dụng vốn nhà nước. Do
đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
sửa đổi quy định này sao cho chỉ áp dụng đối với công trình có sử dụng vốn nhà
nước.

15. Tội vi phạm quy định về sử dụng người
lao động dưới 16 tuổi (Điều 296)

Việc
xử lý trách nhiệm hình sự đối với hành vi sử dụng lao động trẻ em dẫn đến tai nạn
là cần thiết. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp tại Việt Nam hiện nay, hiện tượng
sử dụng lao động trẻ em nông thôn do chính bố mẹ các em yêu cầu vẫn thường diễn
ra. Đây là hành vi cần ngăn chặn, tuy nhiên, ngăn chặn bằng biện pháp hình sự lại
không thực sự hợp lý. Trong những trường hợp này, trẻ em đã bị tai nạn, cha mẹ phải
tìm cách chạy chữa lại còn có nguy cơ đối mặt với một bản án hình sự. Số tiền
phạt hay thời gian ngồi tù của cha mẹ sẽ khiến cuộc sống của các gia đình này
đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn hơn. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc việc không xử lý trách
nhiệm hình sự đối với trường hợp cha mẹ sử dụng lao động trẻ em giúp công việc
của gia đình.

16. Tội thông đồng, bao che cho người nộp
thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223)

Các
hành vi của người có chức vụ quyền hạn thông đồng, bao che cho cá nhân, tổ chức
gây thiệt hại cho nhà nước, cho xã hội không chỉ diễn ra trong lĩnh vực thuế mà
còn ở rất nhiều lĩnh vực khác. Ví dụ, cán bộ thanh kiểm tra phát hiện ra vi phạm
của cá nhân, tổ chức thuộc diện phải xử lý vi phạm hành chính nhưng lại thông đồng,
bao che, không xử lý nếu gây hậu quả nghiêm trọng cũng cần xử lý hình sự (tương
tự với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội tại Điều 369 trong
chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp). Đây là một dạng tội phạm về chức vụ
và cần được thể hiện trong Chương XXIII các tội phạm về chức vụ. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên
cứu chuyển quy định của Điều 223 xuống Chương XXIII và mở rộng phạm vi áp dụng
của tội danh này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thuế mà mở rộng ra tất cả
các lĩnh vực khác của quản lý nhà nước. Cấu thành cụ thể của tội danh này gồm:
(1) chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn; (2) lỗi cố ý; (3) hành vi thông đồng,
bao che cho hành vi vi phạm hoặc nghĩa vụ đối với nhà nước của cá nhân tổ chức
khác; (4) gây hậu quả nghiêm trọng cho nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác.

17. Tội buộc công chức, viên chức thôi
việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162)

Điều
162 xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi sa thải trái pháp luật đối với
người lao động, hoặc cưỡng ép, đe dọa, buộc người lao động phải thôi việc. Các
yếu tố cần có thêm là “vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân” và “làm
cho người bị sa thải, thôi việc hoặc gia đình họ lâm vào tình trạng khó
khăn”. Việc áp dụng tội danh này trong trường hợp buộc công chức, viên chức
thôi việc, sa thải người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước có thể hợp lý,
song nếu áp dụng cho khối doanh nghiệp tư nhân sẽ không còn phù hợp, vì các lý
do sau:


Quan hệ hợp đồng lao động là quan hệ dân
sự, việc chấm dứt hợp đồng lao động, sa thải trái pháp luật đã có các biện pháp
chế tài về dân sự điều chỉnh (nhận người lao động trở lại làm việc, bồi thường
theo Điều 42 của Bộ luật Lao động).


Việc xác định yếu tố vụ lợi hay động cơ
cá nhân của người ra quyết định sa thải là quan hệ giữa người này và đơn vị đã
đứng ra thuê lao động. Ví dụ, nếu một vị giám đốc ra quyết định sa thải trái
pháp luật đối với một nhân viên, dù là vì vụ lợi hay động cơ cá nhân, thì cũng
được coi là quyết định của công ty đó bởi vị giám đốc là người đại diện hợp
pháp. Do đó, nếu việc ra quyết định vì vụ lợi hay động cơ cá nhân thì vị giám đốc
đó phải chịu trước chủ sử dụng lao động (là công ty) chứ không phải là vấn đề
mà nhà nước cần can thiệp. Lập luận này cũng lý giải vì sao tội này áp dụng với
cán bộ, công chức thì hợp lý, vì trong trường hơp này, chủ sử dụng lao động đối
với cán bộ, công chức chính là Nhà nước.

Do
đó, đề nghị cơ quan soạn thảo
thu hẹp phạm vi của Điều 162, không hình sự hóa đối với trường hợp sa thải trái
pháp luật của doanh nghiệp.

18. Tội vi phạm quy định
của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221)

Việc
miêu tả hành vi trong tội danh này chưa thực sự phù hợp và có thể gây khó khăn
trong quá trình áp dụng do có sự chồng lấn với các tội danh khác, cụ thể như
sau:

Thứ
nhất, tội danh này không phân biệt lỗi cố ý và vô ý. Nếu chỉ xử lý lỗi vô ý thì
không phù hợp vì có nhiều hành vi mang tính cố ý như “giả mạo”,
“dụ dỗ”, “cố ý làm hư hỏng. Nếu chỉ xử lý lỗi cố ý thì việc lặp
lại từ “cố ý” tại điểm d “cố ý làm hư hỏng tài liệu” lại
không thể giải thích được. Hơn nữa, nếu chỉ xử lý theo lỗi cố ý thì sẽ thành
trùng lặp với các tội danh khác theo phân tích dưới đây. Nếu xử lý cả lỗi cố ý
và vô ý thì lại không phù hợp vì mức độ nguy hiểm cho xã hội của các trường hợp
cố ý và vô ý khác nhau rất lớn.

Thứ
hai, các hành vi cố ý vi phạm quy định về kế toán luôn nhằm một mục đích xác định,
ví dụ như để tham ô tài sản, để lừa đảo, để trốn thuế, hoặc là cố ý công bố
thông tin sai lệch, che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán… Trên thực tế,
rất khó có thể hình dung ra một hành vi cố ý vi phạm quy định về kế toán mà
không nhằm mục đích trục lợi như vậy. Mà nếu hành vi vi phạm này nhằm các mục
đích trục lợi như trên đã liệt kê thì đã có các tội danh khác xử lý. Do đó, việc
quy định thêm tội danh này là thừa, không cần thiết.

Đề nghị cơ quan soạn thảo
cân nhắc, nghiên cứu để bỏ quy định tại Điều 221 về Tội vi phạm quy định về kế
toán hoặc quy định rõ để phân biệt lỗi cố ý và vô ý đối với tội danh này.

19. Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài
(Điều 206)

Việc miêu tả hành vi tại
Điều 206 có sự nhẫm lẫn dẫn đến khó hiểu.

Thứ nhất, có sự trùng lặp
giữa điểm a và điểm b của khoản 1. Điểm a quy định việc cấp tín dụng “cho
những trường hợp không được cấp tín dụng” còn điểm b quy
định về việc cấp tín dụng “cho những đối tượng không được cấp tín
dụng”. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc lại việc sử dụng từ ngữ
tại điểm a và b cho phù hợp.

Thứ hai, điểm d quy định
về việc vi phạm quy định pháp luật về “tổng mức dư nợ tín dụng”. Thuật
ngữ “tổng mức dư nợ tín dụng” không bao gồm các hoạt động tín dụng
ngoài cho vay như bảo lãnh. Hơn nữa, việc quy định này chỉ xử lý được hành vi
vi phạm khi tổng mức dư nợ tín dụng của tất cả các  nghiệp vụ vượt quá giới hạn, chứ không xử lý
được trường hợp cấp tín dụng vượt giới hạn đối với từng nghiệp vụ. Do đó, đề
nghị sửa lại thành “giới hạn số dư cấp tín dụng”.

Trên đây là một số ý kiến
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) sau quá trình rà soát Bộ
luật Hình sự năm 2015. Rất mong cơ quan soạn thảo xem xét, cân nhắc.

Trân trọng cảm ơn sự hợp
tác của Quý cơ quan./.