VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa

Thứ Năm 08:48 21-06-2018

Kính gửi: Vụ Kết cấu hạ tầng giao thông, Bộ Giao thông vận tải

Trả lời Công văn số 5098/BGTVT-KCHT của Bộ Giao thông vận tải về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:

  1. Một số quy định liên quan đến thủ tục hành chính chưa đảm bảo tính minh bạch

Dự thảo có nhiều quy định về thủ tục hành chính mà các chủ thể đầu tư, khai thác đường thủy nội địa phải thực hiện. Để đảm bảo thuận lợi trong triển khai thực hiện và hạn chế tình trạng nhũng nhiễu của các cán bộ thực thi, gây khó khăn cho các đối tượng chịu tác động, các quy định cần phải cụ thể, rõ ràng, tạo cách hiểu thống nhất giữa các chủ thể áp dụng. Một số quy định tại Dự thảo chưa đáp ứng được yêu cầu trên, ví dụ:

  1. Thủ tục không rõ về quy trình, tiêu chí xét duyệt của cơ quan có thẩm quyền
  • Về nguyên tắc xây dựng kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa (Điều 4):

Khoản 2 Điều 4 Dự thảo quy định, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa phải theo quy hoạch đã được phê duyệt, trường hợp dự án đầu tư xây dựng khác so với quy hoạch đã được phê duyệt thì “trước khi triển khai dự án, chủ đầu tư phải báo cáo và được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chấp thuận”. Đây được xem là một dạng giấy phép nhưng không rõ về: chủ thể cấp phép (cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch là cơ quan nào); trình tự thủ tục cấp phép (hồ sơ, thời gian giải quyết) và tiêu chí để cơ quan có thẩm quyền xem xét chấp thuận hoặc từ chối.

Trường hợp này được xem là một ngoại lệ của việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa – không theo quy hoạch. Việc chấp thuận ngoại lệ này cần phải được quy định rõ ràng, tránh bị lạm dụng làm giảm ý nghĩa của nguyên tắc “phù hợp với quy hoạch”, vì vậy để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các vấn đề trên.

Góp ý tương tự đối với thủ tục chấp thuận trường hợp bến thủy sử dụng tạm thời trong hành lang bảo vệ công trình quy định tại khoản 1 Điều 10 Dự thảo.

  • Thỏa thuận thông số kỹ thuật (Điều 6)

Điều 6 Dự thảo quy định, trước khi đầu tư xây dựng luồng, chủ đầu tư sẽ phải thực hiện thủ tục để thỏa thuận thông số kỹ thuật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là một dạng thủ tục hành chính, theo đó chủ đầu tư sẽ gửi hồ sơ, cơ quan nhà nước sẽ nhận hồ sơ, xem xét và có “văn bản thỏa thuận vị trí xây dựng cảng, bến thủy nội địa gửi cho chủ đầu tư”.

Dự thảo không quy định về căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để “thỏa thuận vị trí xây dựng, cảng bến thủy nội địa gửi cho chủ đầu tư”. Điều này khiến cho quy trình thỏa thuận này trở nên chưa rõ ràng và có thể gây khó khăn cho các đối tượng trong quá trình triển khai, đặc biệt là các nhà đầu tư, khi không nhận biết trước được các chính sách áp dụng. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ những vấn đề trên.

Góp ý tương tự đối với quy định về thỏa thuận vị trí xây dựng và công bố hoạt động cảng, bến thủy nội địa tại khoản 3 Điều 11 Dự thảo.

  • Thủ tục đóng âu tàu (Điều 20)

Điều 20 Dự thảo quy định về thủ tục đóng âu tàu, trong đó quy định các trường hợp âu tàu được đóng, hồ sơ đề nghị đóng âu tàu, nhưng lại không quy định thời hạn xem xét hồ sơ và ra quyết định đóng âu tàu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này sẽ khiến cho quy trình thực hiện gặp khó khăn.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về thời gian cơ quan có thẩm quyền xem xét hồ sơ và ban hành quyết định đóng âu tàu.

  • Sửa chữa, nâng cấp công trình cảng, bến thủy nội địa (Điều 33)

Khoản 3 Điều 33 Dự thảo quy định, trước khi tiến hành việc cải tạo, nâng cấp cảng, bến thủy nội địa phải có ý kiến thỏa thuận của cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên Dự thảo lại không quy định về trình tự của thủ tục này. Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ thủ tục này.

Góp ý tương tự đối với thủ tục chấp thuận phương án bảo đảm an toàn giao thông đối với thi công công trình liên quan đến giao thông đường thủy nội địa quy định tại khoản 4 Điều 39 Dự thảo.

  1. Thiếu quy định về thời gian xem xét tính hợp lệ của hồ sơ

Về mặt nguyên tắc, khi quy định về thủ tục hành chính, sẽ phải xác định cụ thể các khoảng thời gian của từng bước thực hiện thủ tục, trong đó có thời gian cơ quan có thẩm quyền xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ. Đây là khoảng thời gian quan trọng, là căn cứ để xác định các khoảng thời gian tiếp theo. Hầu hết các khoảng thời gian cơ quan xem xét, thẩm định hồ sơ để cấp phép đều được tính từ thời điểm nhận được “hồ sơ hợp lệ” mà không phải là thời điểm nhận được “hồ sơ”.

Rất nhiều quy định về thủ tục hành chính trong Dự thảo thiếu quy định về khoảng thời gian cơ quan có thẩm quyền xem xét tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ. Điều này có thể khiến cho doanh nghiệp không nhận biết được thời gian hoàn thành thủ tục hoắc/và có nguy cơ doanh nghiệp bị yêu cầu hoàn thiện hồ sơ nhiều lần.

Vì vậy, để đảm bảo tính minh bạch của thủ tục, đề nghị Ban soạn thảo rà soát toàn bộ Dự thảo, bổ sung quy định về khoảng thời gian xem xét tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ trong các quy định về thủ tục hành chính. Ví dụ, quy định tại khoản 3 Điều 8; điểm a khoản 3 Điều 13; khoản 3 Điều 15; khoản 4 Điều 15; điểm c khoản 2 Điều 16; khoản 2 Điều 19, điểm d khoản 3 Điều 34; điểm c khoản 6 Điều 40.

  1. Thiếu quy định về hình thức phản hồi của cơ quan nhà nước đối với các thủ tục thực hiện theo phương thức điện tử

Theo quy định tại Chương IV Dự thảo thì các thủ tục liên quan đến vào, rời cảng, bến thủy nội địa có thể thực hiện theo hình thức phương tiện điện tử, tuy nhiên Dự thảo lại không thiết kế thủ tục hành chính theo phương tiện điện tử một cách đầy đủ, cụ thể là hình thức phản hồi của các cơ quan nhà nước như thế nào nếu người làm thủ tục bằng phương tiện điện tử. Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này.

  1. Một số góp ý khác
  2. Chưa thống nhất với Luật đầu tư 2014

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Dự thảo, trước khi đầu tư xây dựng luồng, chủ đầu tư phải thực hiện thủ tục “thỏa thuận thông số kỹ thuật chi tiết”, theo đó phải gửi Hồ sơ tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong Hồ sơ phải có “Bản sao văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Khoản 4, 5 Điều 4 Dự thảo quy định, việc quyết định chủ trương đầu tư kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa sử dụng vốn đầu tư công được thực hiện theo Luật đầu tư công, việc quyết định chủ trương đầu tư sử dụng vốn ngoài nhà nước được thực hiện theo Luật đầu tư.

Theo quy định của Luật đầu tư thì không phải dự án nào cũng phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Vì vậy, Dự thảo quy định trong mọi trường hợp phải có “văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan có thẩm quyền” là chưa phù hợp với Luật đầu tư.

Để đảm bảo tính thống nhất, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định trên theo hướng, chỉ cung cấp “văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan có thẩm quyền” trong trường hợp dự án đầu tư thuộc trường hợp phải xin chấp thuận chủ trương theo quy định của pháp luật về đầu tư.

  1. Thời hạn hiệu lực của quyết định công bố hoạt động cảng, bến thủy nội địa (Điều 13)

Điểm b khoản 6 Điều 13 Dự thảo quy định, thời hạn hiệu lực của quyết định công bố hoạt động bến thủy nội địa là “theo đề nghị của chủ bến, phù hợp với thời hạn sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, nhưng không quá thời hạn 5 năm”.

Việc đặt ra thời hạn không quá 05 năm là chưa rõ về mục tiêu quản lý và chưa hợp lý, bởi vì, đối với cảng thủy nội địa thời hạn công bố được xác định theo thời hạn đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp mà không bị giới hạn về thời gian tối đa, trong khi đó đối với bến thủy nội địa lại bị giới hạn. Mặt khác, trong quá trình hoạt động các nội dung đã công bố không có gì thay đổi thì việc yêu cầu công bố lại (vì hết thời hạn công bố) là chưa hợp lý, và không có ý nghĩa (vì công bố lại cũng chỉ là công bố lại các thông tin đã công bố trước đó).

Mỗi lần công bố lại sẽ phải thực hiện thủ tục hành chính mới, điều này sẽ mất thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư. Để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, đề nghị Ban soạn thảo quy định theo hướng, thời hạn hiệu lực của quyết định công bố hoạt động bến thủy nội địa là phù hợp với thời hạn sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, tức là quy định “không quá thời hạn 5 năm”.

Góp ý tương tự đối với thời hạn hiệu lực của quyết định công bố lại đối với bến thủy nội địa quy định tại điểm b khoản 4 Điều 14 Dự thảo.

  1. Công bố đóng khu neo đậu (Điều 16)

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 16 Dự thảo thì vì “lý do đặc biệt khác” khu neo đậu sẽ được xem xét, công bố đóng. Trường hợp này là chưa rõ ràng, vì không rõ những trường hợp đặc biệt khác là những trường hợp nào. Việc đóng khu neo đậu sẽ tác động trực tiếp đến quyền lợi của các doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến khu neo đậu, nếu khu này bị đóng vì những lý do chưa hợp lý và thiếu rõ ràng thì sẽ gây thiệt hại cho các chủ thể này.

Do đó, để đảm bảo tính minh bạch của chính sách và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các chủ thể có liên quan đề nghị Ban soạn thảo hoặc quy định rõ các trường hợp này hoặc bỏ cụm từ “các lý do đặc biệt khác” tại điểm c khoản 1 Điều 6 Dự thảo.

Góp ý tương tự đối với căn cứ để đình chỉ hoạt động của cảng, bến thủy nội địa quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 Dự thảo. “Có yêu cầu đình chỉ hoạt động hoặc giải tỏa của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền” là căn cứ chưa rõ ràng ở căn cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu đình chỉ hoạt động. Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các trường hợp này, nếu không quy định rõ đề nghị bỏ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 Dự thảo.

  1. Đình chỉ hoạt động cảng, bến thủy nội địa có thời hạn (Điều 35)

Điểm a khoản 2 Điều 35 Dự thảo quy định về các trường hợp cảng, bến thủy nội địa bị đình chỉ hoạt động vì không bảo đảm theo thiết kế, gây mất an toàn giao thông hoặc có nguy cơ gây mất an toàn cho người và phương tiện. “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đình chỉ hoạt động, nếu công trình bị hư hỏng chưa được sửa chữa xong, thì chủ hàng, bến tiếp tục sửa chữa và báo cho Cảng vụ đường thủy nội địa”.

Quy định trên là chưa rõ về hậu quả của trường hợp công trình không được sửa chữa xong trong khoảng thời gian 30 ngày – thời hạn bị đình chỉ. Trong trường hợp này thì cảng, bến thủy nội địa có tiếp tục bị đình chỉ hoạt động không (vì thời hạn đình chỉ là không quá 30 ngày)? Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ phải ban hành quyết định gia hạn thời hạn đình chỉ? Thời điểm được xem là hết thời hạn đình chỉ sau khi cảng, bến được sửa chữa xong là lúc nào?

Để đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các vấn đề trên.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.