VCCI góp ý Dự thảo Nghị định quy định một số điều kiện đầu tư kinh doanh chứng khoán

Thứ Năm 09:19 07-04-2016

Kính gửi: Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước – Bộ Tài chính

Trả lời Công văn số 2336/BTC-UBCK của
Bộ Tài chính ngày 22/02/2016 về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định một
số điều kiện đầu tư kinh doanh chứng khoán (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội,
có một số ý kiến như sau:

1.      Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán (Điều
4)

Theo quy định tại Điều 4 Dự thảo thì,
công ty chứng khoán phải đáp ứng điều kiện là:


Quyền
sử dụng trụ sở công ty có thời hạn tối thiểu một (01) năm tính từ ngày hồ sơ đề
nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán đầy đủ và hợp lệ
(điểm a khoản 1 Điều 4)


Diện
tích sàn giao dịch chứng khoán tại trụ sở chính của công ty chứng khoán có nghiệp
vụ môi giới chứng khoán tối thiểu là 100 m2 (điểm b khoản 1 Điều 4)

Quy định về các điều kiện trên là
chưa hợp lý ở các điểm sau:


Yêu
cầu về thời hạn tối thiểu một năm cho quyền sử dụng trụ sở, có thể được hiểu nhằm
mục đích đảm bảo tính ổn định trong hoạt động của công ty chứng khoán tuy
nhiên, đây lại là quy định can thiệp sâu vào quyền tự chủ kinh doanh của doanh
nghiệp. Quyền sử dụng trụ sở thường được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, tự nguyện
và tự thoả thuận, vì vậy thời hạn thuê không thể áp đặt “cứng” bằng một khoảng
thời gian nào đó, mà còn tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và
có thể thay đổi trong quá trình thực hiện khi những điều kiện thực hiện hợp đồng
thay đổi. Hơn nữa, đứng dưới góc độ các mục tiêu quản lý trong lĩnh vực này,
thì trụ sở không phải là yếu tố cốt lõi cần phải kiểm soát. Vì vậy, yêu cầu về
thời hạn cố định tối thiểu của trụ sở của công ty chứng khoán là chưa phù hợp, đề
nghị Ban soạn thảo
cân nhắc, xem xét bỏ yêu cầu này, tức là bỏ quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 4 Dự thảo.


Yêu
cầu diện tích tối thiểu về sàn giao dịch chứng khoán tại trụ sở dường như cũng
chưa hợp lý. Ban soạn thảo chưa đưa ra giải trình thuyết phục về việc tại sao lại
phải đáp ứng tối thiểu diện tích 100m2 mà không phải là con số khác? Và tại sao
sàn giao dịch chứng khoán lại phải đáp ứng một diện tích tối thiểu như đề xuất
tại Dự thảo thay vì chỉ cần có sàn giao dịch với diện tích phù hợp với hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp? Mặt khác, đối
với các giao dịch chứng khoán, nhiều trường hợp nhà đầu tư không cần phải đến
sàn giao dịch mới có thể thực hiện được các lệnh giao dịch, hay tìm hiểu được
thông tin về các loại chứng khoán. Do đó, quy định cứng về diện tích tối thiểu
của sàn giao dịch có căn cứ chưa vững chắc. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo
bỏ yêu cầu về diện tích tối thiểu 100m2 của sàn giao dịch chứng
khoán và sửa đổi quy định theo hướng có diện tích sàn giao dịch phù hợp với hoạt
động dịch vụ mà mình cung cấp.

2.      Đăng ký cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác của tổ chức kinh doanh chứng
khoán (Điều 6)

Khoản 1, 2 Điều 6 Dự thảo quy định,
Công ty chứng khoán có tối thiểu hai (02) nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng
khoán được thực hiện giao dịch ký quỹ/ có đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán được cung cấp dịch vụ giao dịch trong ngày cho khách hàng sau khi báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Quy
định này là chưa rõ về phương thức quản lý đối với hoạt động cung cấp các dịch
vụ chứng khoán khác của tổ chức kinh doanh chứng khoán ở điểm:


Dự
thảo đang thiết kế hoạt động cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác của tổ chức
kinh doanh chứng khoán theo hướng phải đáp ứng những điều kiện nhất định và
không phải cấp phép. Việc Dự thảo yêu cầu công ty chứng khoán phải “báo cáo” cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mới được phép cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác
khiến cho hình thức quản lý đối với lĩnh vực này dễ biến thành hình thức xin
phép, mặc dù có tên gọi là “báo cáo”.


Dưới
góc độ tính minh bạch, không rõ doanh nghiệp phải “báo cáo” nội dung gì với cơ
quan có thẩm quyền? Nếu doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định
nhưng chưa thực hiện báo cáo thì có được phép cung cấp các dịch vụ chứng khoán
khác không, trong khi về bản chất, hành vi này không gây ảnh hưởng gì đến quyền
lợi của các chủ thể có liên quan và cơ quan quản lý nhà nước có thể kiểm soát
và/hoặc quản lý thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.

Từ những phân tích trên, đề nghị
Ban soạn thảo
bỏ yêu cầu phải báo cáo với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quy định
tại khoản 1, 2 Điều 6 Dự thảo.

3.      Điều kiện, hồ sơ, thủ tục thành lập chi nhánh tại Việt Nam của công ty chứng
khoán nước ngoài (Điều 8)


Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép thành lập
và hoạt động chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh doanh chứng khoán nước
ngoài

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều
8 Dự thảo thì trong Hồ sơ phải có “Tài liệu xác nhận công ty mẹ đáp ứng các điều
kiện quy định tại khoản 1 (các điều kiện để được thành lập chi nhánh tại Việt
Nam của công ty chứng khoán nước ngoài)”, tuy nhiên Dự thảo không quy định rõ về
chủ thể xác nhận công ty mẹ đáp ứng các điều kiện là ai? Điều này có thể gây
khó khăn trên thực tế áp dụng, vì vậy đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ.


Về con dấu:

Khoản 5 Điều 8 Dự thảo quy định
“Trong thời hạn ba mươi (30) ngày, kể từ ngày giấy phép thành lập và hoạt động
chi nhánh có hiệu lực, công ty mẹ phải làm thủ tục xin cấp con dấu với cơ quan
công an, công bố giấy phép thành lập và hoạt động chi nhánh trên một tờ báo viết
hoặc báo điện tử được phép phát hành tại Việt Nam trong ba (03) số liên tiếp”.

Theo Điều 44 Luật Doanh nghiệp thì
“Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức số lượng và nội dung con dấu của
doanh nghiệp” và “trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu
với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên  Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp”.
Như vậy, quy định tại khoản 5 Điều 8 Dự thảo là chưa phù hợp với Luật Doanh
nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại quy định này để đảm bảo
tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Tương ứng, đề nghị Ban soạn thảo
bỏ khoản 6 Điều 8 “trong thời hạn mười lăm (15) ngày kể từ ngày khai trương hoạt
động chi nhánh tại Việt Nam phải gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo hoạt
động của mình và các tài liệu xác thực tổ chức nước ngoài đã hoàn tất các thủ tục
theo quy định tại khoản 5 Điều này”.

4.      Kinh doanh chứng khoán phái sinh

Hiện tại, Nghị định 42[1] điều
chỉnh tất cả các hoạt động về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán
phái sinh, trong đó có quy định về điều kiện kinh doanh, cung cấp dịch vụ bù trừ,
thanh toán chứng khoán phái sinh của tổ chức kinh doanh chứng khoán.

Khoản 3, 4 Điều 6 Dự thảo quy định
thêm về các điều kiện để được kinh doanh chứng khoán phái sinh trong khi bản
thân Nghị định này không sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định 42. Điều
này sẽ dẫn tới hiện tượng chồng lấn về quy định khi điều chỉnh về chứng khoán
phái sinh và tạo ra sự thiếu rõ ràng cho các đối tượng điều chỉnh khi không biết
nên áp dụng quy định tại Nghị định này hay Nghị định 42 khi kinh doanh chứng
khoán phái sinh.

Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất
trong hệ thống pháp luật, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các quy định về chứng
khoán phái sinh tại Dự thảo, nếu có lý do để bổ sung thêm điều kiện về kinh
doanh chứng khoán phái sinh thì đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 42.

Trên đây
là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định một số điều
kiện đầu tư kinh doanh chứng khoán. Rất mong quý Cơ quan
soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra
gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho
Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng
cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

 


[1]
Nghị định số 42/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/5/2015 về chứng khoán phái
sinh và thị trường chứng khoán phái sinh