VCCI góp ý Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chuyển giao công nghệ

Thứ Hai 09:34 19-03-2018

Kính gửi: Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ

                                                            Bộ Khoa học và Công nghệ

Trả lời Công văn số 202/BKHCN-ĐTG của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chuyển giao công nghệ, vì vậy các quy định trong Dự thảo cần đáp ứng ít nhất các yêu cầu:

  • Thống nhất: các quy định phải phù hợp với Luật chuyển giao công nghệ;
  • Minh bạch: các quy định phải rõ ràng, cụ thể, tạo cách hiểu thống nhất giữa các đối tượng áp dụng, đảm bảo có thể thực thi được ngay khi phát sinh hiệu lực;
  • Hợp lý: các quy định phải phù hợp với thực tế, tạo động lực cho các cá nhân và/hoặc tổ chức tham gia hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN)

Một số quy định tại Dự thảo vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu trên, vì vậy để hoàn thiện, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét các vấn đề sau:

  1. Các quy định chưa đủ cụ thể, rõ ràng
    • Đối với biện pháp hỗ trợ dành cho hoạt động CGCN giữa tổ chức KHCN và doanh nghiệp thuộc địa bàn, lĩnh vực ưu đãi đầu tư
  2. Điều kiện để được hỗ trợ (Điều 9)

Theo quy định, một trong những điều kiện được hỗ trợ là doanh nghiệp phải “có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, tài chính lành mạnh,” (điểm d khoản 6 Điều 9).

Như thế nào được cho là kinh doanh “ổn định”, tài chính “lành mạnh”? Các khái niệm này mang tính định tính, tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau và có thể trao quá nhiều quyền quyết định cho cán bộ giải quyết thủ tục. Trong khi đó đây lại là điều kiện để xem xét doanh nghiệp được hỗ trợ hay không, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của doanh nghiệp.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể các khái niệm trên, trong trường hợp không thể quy định theo hướng định lượng được, đề nghị bỏ các điều kiện này.

Góp ý tương tự đối với quy định tại điểm d khoản 6 Điều 9; đoạn 2 điểm b khoản 6 Điều 14.

  1. Quy trình, thủ tục để hỗ trợ kinh phí (Điều 10)

Về hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí (khoản 1 Điều 10)

Dự thảo quy định trong hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí cần phải có:

  • (1) Lý lịch khoa học của cá nhân đăng ký chủ nhiệm đề tài, dự án và các cá nhân đăng ký thực hiện chính;
  • (2) Văn bản xác nhận về sự đồng ý của tổ chức khoa học và công nghệ phối hợp thực hiện đề tài, dự án – nếu có;
  • (2) Các văn bản chứng minh đề tài, dự án phục vụ chuyển giao, ứng dụng công nghệ đã được Cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ địa phương phê duyệt;
  • (3) Văn bản pháp lý chứng minh năng lực về nhân lực, trang thiết bị, tài chính và khả năng huy động vốn từ các nguồn khác để thực hiện đề tài, dự án

Các tài liệu trên cần được xem xét ở các vấn đề sau:

  • Tài liệu (1): không rõ mục tiêu quản lý khi yêu cầu lý lịch khoa học của cá nhân đăng ký chủ nhiệm đề tài, dự án để làm gì? Chú ý là đây không phải nội dung nằm trong điều kiện để hỗ trợ theo khoản 6 Điều 9 Dự thảo. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ phải có tài liệu này khỏi hồ sơ.
  • Tài liệu (2), (3): không rõ là những loại tài liệu nào thì có thể đáp ứng yêu cầu? Đề nghị Ban soạn thảo quy định loại văn bản cụ thể.
  • Ngoài ra, cần chú ý rằng nhiều điều kiện khác (nêu tại khoản 6 Điều 9) đều chưa thấy được thể hiện trong hồ sơ này (ví dụ điều kiện “Công nghệ chuyển giao phải là của tổ chức KHCN” thì cần có Quyết định thành lập tổ chức KHCN? Điều kiện “Công nghệ được chuyển giao phải là công nghệ cao, công nghệ mới” thì cần xác nhận của Cơ quan nào về việc đó là công nghệ cao, công nghệ mới?…). Trong khi đó đây lại là các giấy tờ cẩn thiết để xác định đơn vị đề nghị hỗ trợ có đáp ứng đủ các điều kiện quan trọng để được hưởng hỗ trợ. Vì vậy đề nghị Ban soạn thảo thiết kế các yêu cầu trong hồ sơ bám sát các điều kiện quy định tương ứng.

Góp ý tương tự đối với các tài liệu trong hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ (khoản 1 Điều 15 Dự thảo).

Về quy trình thực hiện (khoản 2 Điều 10):

  • Hội đồng đánh giá hồ sơ: Theo quy định tại Dự thảo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ lập Hội đồng đánh giá dự án để đánh giá hồ sơ. Tuy nhiên Dự thảo lại chưa có quy định nào về thành phần Hội đồng đánh giá và quy chế làm việc của Hội đồng này. Điều này có thể khiến việc thực hiện trên thực tế gặp khó khăn. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các vấn đề trên. Góp ý tương tự đối với khoản 4 Điều 23 Dự thảo.
  • Thời hạn: Dự thảo quy định “thời gian giải quyết hỗ trợ không quá 60 ngày làm việc kể từ khi nhận hồ sơ đầy đủ, hợp lệ” nhưng lại chưa có quy định nào về thời hạn để các cơ quan nhà nước xem xét tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ, do đó sẽ không rõ thời điểm nào được cho là hồ sơ đầy đủ, hợp lệ tính từ thời điểm doanh nghiệp nộp hồ sơ ban đầu. Sự thiếu rõ ràng về khoảng thời gian này cũng có thể khiến cho quy trình xét duyệt bị kéo dài và tạo ra nguy cơ nhũng nhiễu, gây khó khăn từ các cán bộ thực thi. Để hạn chế tình trạng này, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về thời gian xem xét tính đầy, đủ hợp lệ của hồ sơ, trong trường hợp phải yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung thì cán bộ thực thi chỉ yêu cầu một lần.
    • Về biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ (Điều 14)
  • Khoản 4 Điều 14 quy định về hình thức hỗ trợ là: “hỗ trợ lãi suất vay đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp thực hiện giải mã, làm chủ công nghệ phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia”. Không rõ như thế nào được cho là sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia hoặc những sản phẩm này quy định tại văn bản nào? Đề nghị Ban soạn thảo hoặc quy định rõ các sản phẩm này hoặc dẫn chiếu tới văn bản có quy định;
  • Điểm b khoản 5 Điều 14 có dẫn chiếu tới các hoạt động quy định tại điểm d, e, f khoản 3 Điều 14 để xác định mức hỗ trợ tối đa, nhưng khoản 3 Điều này lại không có điểm e, f. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại để đảm bảo tính chính xác trong dẫn chiếu;
  • Về điều kiện hỗ trợ:

Khoản 6 Điều 14 Dự thảo quy định về điều kiện hỗ trợ, trong đó chủ thể muốn hỗ trợ phải “có đủ điều kiện, năng lực để thực hiện”. Đây là điều kiện chưa rõ ràng: vì không rõ như thế nào là “đủ điều kiện, năng lực để thực hiện”? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ để đảm bảo thuận lợi khi triển khai thực hiện.

  • Về biện pháp hỗ trợ kinh phí cho tổ chức, cá nhân tự đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có kết quả được chuyển giao và ứng dụng trong thực tiễn (Điều 20)

Điều 20 Dự thảo quy định về trình tự, thủ tục để được hỗ trợ kinh phí trong trường hợp này. Tuy nhiên, quy trình dự kiến tại Điều 20 chưa rõ ở các điểm:

  • Thời gian để giải quyết thủ tục là bao lâu kể từ thời điểm nhận hồ sơ?
  • Cơ quan giải quyết thủ tục là cơ quan nào? Dự thảo quy định là “cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ”, nhưng không rõ cơ quan nào là cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ có thẩm quyền – ví dụ doanh nghiệp sẽ gửi cho sở khoa học và công nghệ hay Bộ hay cơ quan nào khác? Trường hợp nào thì gửi cho sở, trường hợp nào thì gửi cho Bộ?
  • Quy định về tài liệu yêu cầu trong Hồ sơ chưa đủ rõ ràng: ví dụ tài liệu nào thì được xem là “tài liệu chứng minh kết quả được chuyển giao, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn”?

Để đảm bảo tính minh bạch trong quy định về thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về các điểm trên.

Góp ý tương tự đối với thủ tục mua, nghiên cứu hoàn thiện sáng chế, sáng kiến chuyển giao cho cộng đồng quy định tại Điều 23 Dự thảo.

  • Biện pháp khuyến khích hình thành mạng lưới liên kết hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ trong và ngoài nước (Điều 30)

Dự thảo quy định “tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn và xúc tiến chuyển giao công nghệ trong các cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo, hình thành mạng lưới liên kết hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ trong và ngoài được xem xét đưa đi đào tạo tại nước ngoài …”.

Tuy nhiên, Dự thảo lại không có quy định về trình tự, thủ tục, tiêu chí để các chủ thể này được xem xét đưa đi nước ngoài đào tạo và quy định liên quan đến đưa đi đào tạo nước ngoài.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các vấn đề trên để đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện.

  1. Một số quy định chưa đảm bảo tính hợp lý
  2. Hoàn trả ưu đãi (Điều 8)

Điều 8 Dự thảo quy định về nghĩa vụ hoàn trả các khoản vay ưu đãi đã được hưởng trong trường hợp bị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ, theo đó:

  • Trường hợp chưa sử dụng khoản hỗ trợ, ưu đãi: phải trả lại toàn bộ
  • Trường hợp đã sử dụng khoản hỗ trợ, ưu đãi:
  • Do nguyên nhân khách quan (thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn và các trường hợp khách quan khác do cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định cụ thể): không phải hoàn trả kinh phí đã sử dụng
  • Do nguyên nhân chủ quan: hoàn trả toàn bộ khoản hỗ trợ, ưu đãi đã được nhận tính đến thời điểm Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ bị hủy bỏ hiệu lực

Quy định trên cần xem xét ở các vấn đề sau:

  • Về tính hợp lý của quy định:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật chuyển giao công nghệ thì Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ bị hủy bỏ trong các trường hợp: i) Vi phạm nội dung trong Giấy phép chuyển giao công nghệ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ; ii) Giả mạo hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ hoặc đăng ký chuyển giao công nghệ; iii) Theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp vi phạm pháp luật có liên quan.

Như vậy, có thể thấy, Giấy  chứng nhận bị hủy bỏ hiệu lực trong những trường hợp doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận. Đặc biệt có trường hợp, doanh nghiệp đã gian dối để được cấp Giấy chứng nhận. Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng. Do đó, Dự thảo quy định việc hoàn trả ưu đãi theo hướng phân định việc đã sử dụng hay chưa để xem xét doanh nghiệp có hoàn trả khoản ưu đãi, hỗ trợ đã được hưởng hay không là chưa hợp lý, chưa thể hiện được sự trừng phạt có tính răn đe đối với các hành vi vi phạm của các chủ thể nhận hỗ trợ và nguy cơ gây thất thoát ngân sách nhà nước/quỹ;

  • “Trường hợp do nguyên nhân khách quan (thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn và các trường hợp khách quan khác do cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định)” không thể được áp dụng cho trường hợp “giả mạo hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ hoặc đăng ký chuyển giao công nghệ” (điểm b khoản 2 Điều 32 Luật chuyển giao công nghệ) vì trường hợp vi phạm này do ý chí của chủ thể vi phạm;
  • Quy định “trường hợp khách quan khác do cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định” (điểm b khoản 1 Điều 8) là chưa rõ ràng. Cơ quan nhà nước xem xét, quyết định các trường hợp khách quan khác dựa trên cơ sở/căn cứ nào? Cơ quan nhà nước nào là cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét? Thủ tục để được xem xét là gì? Việc thiếu rõ ràng trong quy định này có thể tạo ra sự tùy tiện trong thực thi của các cơ quan nhà nước và khó khăn cho các doanh nghiệp khi triển khai thực hiện;
  • “Theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp vi phạm pháp luật có liên quan” (điểm c khoản 2 Điều 32 Luật chuyển giao công nghệ) là một trong những trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký bị hủy bỏ được quy định trong Luật. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng ở điểm, không rõ những vi phạm pháp luật nào, cơ quan nhà nước sẽ đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận?

Từ các phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định tại Điều 8 Dự thảo theo hướng:

  • Về việc hủy bỏ hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký CGCN: Bổ sung quy định chi tiết, cụ thể về các trường hợp vi phạm pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ đề nghị hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 32 Luật Chuyển giao công nghệ;
  • Về các trường hợp phải hoàn trả khoản ưu đãi: Đề nghị quy định về trình tự, thủ tục hoàn trả các khoản ưu đãi đã hưởng cho mọi trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ bị hủy bỏ hiệu lực (nói cách khác, trong các trường hợp Giấy chứng nhận bị hủy bỏ hiệu lực quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp đều phải hoàn trả các khoản ưu đãi đã hưởng).
  1. Điều kiện đặc thù đối với tổ chức thẩm định giá công nghệ (Điều 32)

Điều 32 Dự thảo quy định về điều kiện đặc thù của tổ chức thẩm định giá công nghệ, bao gồm 02 nhóm là điều kiện về nhân lực và điều kiện về cơ sở vật chất.

  • Về điều kiện nhân lực

Quy định về điều kiện nhân lực trong Dự thảo khác biệt so với điều kiện đối với tổ chức thẩm định giá quy định tại Luật giá, theo hướng yêu cầu cao hơn (Luật giá yêu cầu tổ chức phải có tối thiểu 3 thẩm định viên thì Dự thảo yêu cầu tối thiểu 5 thẩm định viên…).

Không rõ tại sao cần tăng yêu cầu đối với tổ chức thẩm định giá trong lĩnh vực này? Lĩnh vực này có đặc thù gì so với thẩm định giá nói chung và việc tăng thêm mức yêu cầu có thể giúp xử lý đặc thù này thế nào?

Ngoài ra, cần chú ý rằng quy trình thẩm định giá cũng như trách nhiệm của thẩm định viên về giá trong Dự thảo cũng sẽ áp dụng pháp luật về giá, do đó việc nâng cao điều kiện, ví dụ quy định thêm số người có chuyên môn so với doanh nghiệp thẩm định giá dường như chưa phù hợp.

Do đó, để đảm bảo tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như đảm bảo tính đặc thù của hoạt động thẩm định giá công nghệ, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định theo hướng, yêu cầu thẩm định viên về giá của doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo về định giá công nghệ, định giá tài sản trí tuệ, còn số nhân lực thì tương tự như doanh nghiệp thẩm định giá chung, ít nhất 03 thẩm định viên về giá.

  • Điều kiện về cơ sở vật chất:

Các điều kiện được thiết kế tại Dự thảo chưa thể hiện rõ tính đặc thù của tổ chức thẩm định giá công nghệ vì có thể có ở bất kì doanh nghiệp thẩm định giá nào (trụ sở, hệ thống dữ liệu thông tin phục vụ cho hoạt động thẩm định giá).

Mặt khác, quy định điều kiện này tại Dự thảo là không cần thiết, bởi từ góc độ kinh doanh, tự bản thân các doanh nghiệp đã phải đương nhiên bảo đảm các vấn đề này.

Đó là chưa kể tới một số bất cập khác, ví dụ: không rõ trụ sở như thế nào là hợp pháp? Hệ thống tư liệu, cơ sở dữ liệu về công nghệ, thị trường, tài chính doanh nghiệp hoặc kết nối với các cơ sở dữ liệu … như thế nào được cho là cần thiết để thực hiện và cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực tương ứng?

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về trụ sở; quy định theo hướng định lượng về các điều kiện cơ sở vật chất còn lại, trong trường hợp không thể quy định theo hướng định lượng được, đề nghị bỏ các quy định này.

Góp ý tương tự đối với điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ đánh giá công nghệ, giám định công nghệ quy định tại khoản 4 Điều 33 Dự thảo.

  1. Về Báo cáo thực hiện chuyển giao công nghệ (Điều 7)

Điều 7 Dự thảo quy định về nghĩa vụ báo cáo thực hiện chuyển giao công nghệ đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ/Giấy chứng nhận đăng ký, bên nhận công nghệ (trong trường hợp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao công nghệ trong nước) hoặc bên giao công nghệ (trong trường hợp chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài).

Quy định này là chưa rõ về nội dung các chủ thể phải báo cáo, có thể nguy cơ tạo ra gánh nặng về thủ tục cho doanh nghiệp khi phải thực hiện báo cáo quá nhiều nội dung không cần thiết. Do vậy, để đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các nội dung cần phải báo cáo và các nội dung này liên quan đến nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi). Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.