VCCI góp ý dự án Luật sửa đổi, bổ sung Phụ lục 4 Luật đầu tư về Danh mục, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện

Thứ Tư 15:34 09-11-2016

Kính gửi: Ủy ban Kinh tế Quốc hội

Liên quan tới Dự án Luật sửa đổi, bổ
sung Phụ lục 4 Luật đầu tư về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện,
trên cơ sở nghiên cứu của chuyên gia và ý kiến của doanh nghiệp, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến góp ý như sau:

I.
Về quan điểm tiếp cận

Luật Đầu tư 2014 ban hành Danh mục
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, trong đó xác định tất cả các ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện hiện hành, là một trong những bước tiến quan trọng
trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Bảo đảm tính minh bạch
về chính sách và là “nút chặn” hiệu quả trong việc ban hành các ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện.

Tuy nhiên, với mục tiêu tiếp tục cải
thiện thể chế quản lý kinh tế, cộng hưởng với các kết quả của đợt rà soát tổng
thể các điều kiện kinh doanh mà Chính phủ thực hiện khoảng giữa năm 2015, đảm bảo
tuân thủ các mục tiêu ban hành điều kiện kinh doanh quy định tại Điều 7.1 Luật
Đầu tư 2014 theo từng thời kỳ, việc rà soát, đánh giá, điều chỉnh lại các
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trong Danh mục nói trên của Luật Đầu tư là rất
cần thiết.

Về cách thức, việc sửa đổi, điều chỉnh
Danh mục này cần xuất phát từ các mục tiêu quản lý Nhà nước thông qua các điều
kiện kinh doanh đối với các ngành nghề kinh doanh nêu tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu
[1].

II.
Về các đề xuất sửa đổi cụ thể

Trên cơ sở quan điểm tiếp cận như
trên, liên quan tới các đề xuất cụ thể đối với việc điều chỉnh các ngành nghề
kinh doanh có điều kiện trong Danh mục sửa đổi của Luật Đầu tư, VCCI có ý kiến
như sau:

1. Đối với các ngành nghề đề xuất bỏ khỏi Danh mục

VCCI cho rằng các đề xuất này là hoàn
toàn hợp lý, phản ánh đúng bản chất của ngành nghề kinh doanh (ngành nghề thông
thường, không cần kiểm soát chặt bằng các điều kiện kinh doanh, bản thân cơ
quan quản lý cũng lúng túng không biết cần kiểm soát gì), xử lý được các vướng
mắc thực tế mà doanh nghiệp gặp phải. Do đó, VCCI hoàn toàn ủng hộ các đề xuất
bãi bỏ này.

2. Đối với các ngành nghề đề xuất bổ sung mới vào Danh mục

Luật Đầu tư 2014 đã quy định khá rõ về
các mục tiêu khi xác định một ngành, nghề là có điều kiện đầu tư hay không, đó
là nhằm bảo vệ các trật tự công (an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, sức khỏe
cộng đồng …). Như vậy, khi xác định một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện, các lý giải phải hướng đến mục tiêu này.

Tuy nhiên, một số ngành, nghề được đề
nghị giữ lại/bổ sung vào Danh mục lại xuất phát từ lý do là đã được quy định và thực hiện ổn định trong các văn bản pháp luật
khác
. Đây dường như chưa phải là lý do phù hợp để quyết định giữ/bổ sung
vào Danh mục, mà lý do cốt lõi vẫn phải giải trình là: các ngành nghề kinh
doanh này có gây ra ảnh hưởng tới các trật tự công ở mức Nhà nước cần thiết phải
kiểm soát bằng các điều kiện hay không?

Phần lớn các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện được kiến nghị bổ sung
vào Danh mục lần này đều chưa giải
trình các mục tiêu chính sách
như yêu cầu tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư, do
đó chưa đủ căn cứ thuyết phục để bổ sung vào Danh mục:


Kinh
doanh dịch vụ quản lý, vận hành nhà chung cư


Kinh
doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng


Kinh
doanh dịch vụ dự báo, cảnh bảo khí tượng thủy văn


Kiểm
toán năng lượng


Kinh
doanh đóng mới, cải hoán tàu cá


Kinh
doanh kho bảo thuế


Kinh
doanh dịch vụ điều tra cơ bản, tư vấn lập quy hoạch, đề án, báo cáo tài nguyên
nước


Sản
xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tô

Vì vậy, đề nghị Quý Cơ quan yêu cầu
Ban soạn thảo giải trình bám sát vào các mục tiêu quy định tại Điều 7.1 Luật Đầu
tư. Nếu không giải trình phù hợp hoặc không thuyết phục, đề nghị không bổ sung
các ngành nghề liên quan vào Danh mục.

Liên quan tới một số vấn đề cụ thể
khác về một số ngành nghề kinh doanh mới bổ sung vào Danh mục, xem góp ý cụ thể
trong các Mục dưới đây.

3.      Đối với các ngành nghề còn giữ lại trong Danh mục dù có ý kiến đề nghị bỏ
ra

Dự thảo đề xuất giữ lại một số ngành
nghề trong Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện mặc dù có ý kiến từ cộng
đồng doanh nghiệp đề nghị bỏ ra khỏi Danh mục.

Tuy nhiên, dường như Ban soạn thảo
chưa giải trình được lý do cần giữ lại các ngành nghề này trong Danh mục theo
các tiêu chí như nêu tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư, chưa có lý giải thuyết phục
về sự cần thiết phải kiểm soát các ngành nghề này bằng các điều kiện kinh doanh
(trong khi pháp luật đã có những công cụ kiểm soát khác), thậm chí có nhầm lẫn
về đối tượng kiểm soát. Cụ thể:

3.1.
Các trường hợp không lý giải được mức độ rủi ro đối với trật tự công cộng
của các ngành nghề kinh doanh hoặc đã được kiểm soát bởi các công cụ pháp luật
khác

a.
Kinh doanh dịch vụ mua bán nợ

Về bản chất, mua bán nợ là giao dịch
trong đó một khoản nợ (cùng với các quyền và nghĩa vụ gắn với khoản nợ đó) được
chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. “Nợ” – đối tượng của giao dịch này –
bao gồm có thể là bất kỳ khoản nợ nào hình thành trong các giao dịch dân sự,
thương mại bình thường (các khoản nợ có tính nhạy cảm, của một nhóm đối tượng đặc
thù đã thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản khác[2]).
Chủ thể của giao dịch mua bán nợ có thể là bất kỳ chủ thể kinh doanh nào (trừ
các chủ thể chuyên nghiệp như các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán…đã
được loại trừ tại Điều 1 Dự thảo). Dịch vụ mua bán nợ chỉ là dịch vụ hỗ trợ,
thúc đẩy các giao dịch mua bán nợ nói trên. Kết quả của giao dịch mua bán nợ
không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ hay khoản nợ, mà chỉ thay đổi chủ thể thực
hiện nghĩa vụ đó.

Như vậy, từ tất cả các góc độ (đối tượng,
chủ thể, hệ quả), việc thực hiện giao dịch mua bán nợ cũng như kinh doanh dịch
vụ mua bán nợ chỉ liên quan tới các chủ thể tham gia, hoàn toàn không có ảnh hưởng
nào tới các lợi ích công cộng được liệt kê trong Điều 7.1 Luật Đầu tư.

Hơn nữa, theo pháp luật dân sự hiện
hành, “nợ” đang được xem là một loại hàng hóa thông thường, được giao dịch bình
thường trên thị trường (những khoản nợ “đặc thù”. “nhiều nguy cơ” – ví dụ các
khoản nợ xấu của các ngân hàng, các tổng công ty nhất định … – đã có những văn
bản khác điều chỉnh). Hệ thống pháp luật về dân sự, thương mại liên quan tới hoạt
động mua bán hiện tại đã cung cấp đủ cơ sở pháp lý để điều chỉnh giao dịch mua
bán nợ cũng như các giao dịch hỗ trợ mua bán nợ.

Vì các lý do nêu trên, đề nghị bỏ
“hoạt động dịch vụ mua bán nợ”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư.

b.
Kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển (Mục 86 – Danh mục sửa đổi)

“Đại lý tàu biển” là dịch vụ mà người
đại lý nhân danh chủ tàu hoặc người khai thác tàu biển tiến hành các dịch vụ
liên quan đến tàu biển hoạt động tại cảng (ví dụ: thực hiện các thủ tục tàu biển
đến, rời cảng; ký kết hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải, hợp đồng
bốc dỡ hàng hóa, hợp đồng thuê tàu, hợp đồng thuê thuyền viên; ký phát vận đơn
hoặc chứng từ vận chuyển tương đương; cung ứng vật tư, nhiên liệu, thực phẩm,
nước sinh hoạt cho tàu biển; trình kháng nghị hàng hải; thông tin liên lạc với
chủ tàu hoặc người khai thác tàu; dịch vụ liên quan đến thuyền viên; thu, chi
các khoản tiền liên quan đến hoạt động khai thác tàu; giải quyết tranh chấp về
hợp đồng vận chuyển hoặc về tai nạn hàng hải và dịch vụ khác liên quan đến tàu
biển[3]).

Như vậy, về mặt bản chất, đây là một
dịch vụ đại diện/ủy quyền thực hiện công việc, tương tự như rất nhiều hoạt động
đại lý trong các lĩnh vực ngành, nghề khác. Những rủi ro xuất phát từ hoạt động
dịch vụ đại lý tàu biển này, nếu có, sẽ chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi
ích của chủ tàu hoặc người khai thác tàu biển (người đã ủy quyền cho đại lý tàu
biển thực hiện các công việc thay mình). Ngay cả khi hoạt động của đại lý tàu
biển có liên quan tới cơ quan Nhà nước (ví dụ thủ tục cho tàu đến, rời cảng)
thì nếu xảy ra rủi ro nào (ví dụ do đại lý làm sai) thì người chịu trách nhiệm
trước Nhà nước vẫn là chủ tàu, người khai thác tàu biển chứ không phải đại lý.
Vì vậy, gần như không có rủi ro nào đáng kể đối với các trật tự công từ hoạt
đông đại lý tàu biển lớn hơn tác động từ các ngành nghề kinh doanh thông thường
khác. .

Nếu là lo ngại tính nhạy cảm của dịch
vụ này nếu đại lý tàu biển là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì hoàn toàn có
thể kiểm soát bằng các điều kiện đầu tư theo cam kết, chỉ áp dụng riêng cho nhà
đầu tư nước ngoài, chứ không nên là điều kiện kinh doanh (áp dụng cho mọi chủ
thể). Chú ý rằng theo cam kết của Việt Nam trong WTO thì lĩnh vực đại lý tàu biển
là dịch vụ mà Việt Nam không mở cửa hoàn toàn cho nhà đầu tư nước ngoài (hiện
nay, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được góp vốn không quá 49% tổng số vốn điều lệ của
doanh nghiệp kinh doanh đại lý tàu biển), mà theo quy định của Luật Đầu tư thì
doanh nghiệp có vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài dưới 49% tổng vốn điều lệ,
cũng được xem là doanh nghiệp trong nước.

Do đó, đề nghị bỏ “dịch vụ đại lý
tàu biển”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

c.
Kinh doanh dịch vụ in (Mục 126 – Danh mục sửa đổi)

“In” là hoạt động sử dụng công nghệ,
thiết bị để tạo ra sản phẩm in. Dịch vụ này đang được xem là một ngành công
nghiệp phụ trợ cho nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh khác trong nền kinh tế
(in hoa văn trên vật liệu xây dựng, trên vải may mặc, in bao bì, nhãn mác…). Hoạt
động in có thể tác động đến an ninh quốc gia, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
chủ yếu liên quan tới các ấn phẩm in (có chứa đựng nội dung không phù hợp với
quy định của pháp luật).

Tuy nhiên, vấn đề về nội dung của ấn
phẩm in đã được kiểm soát bởi pháp luật về xuất bản – hoạt động do Nhà nước độc
quyền thực hiện[4].
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật hiện hành cơ sở in cũng không phải là chủ
thể chịu trách nhiệm đối với các sản phẩm đặt in (mà là các chủ thể thuê dịch vụ
in, sở hữu sản phẩm cần in). Khi nhận các chế bản in thì chủ thể thuê dịch vụ đã
phải xuất trình và chứng minh các loại giấy phép có liên quan đến chế bản in
“nhạy cảm” (giấy phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản bản tin; văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các biểu mẫu giấy tờ của cơ quan nhà nước
…). Như vậy, việc kiểm soát sự tác động tới các lợi ích công cộng, an ninh quốc
gia hay trật tự xã hội của hoạt động tin đã được kiểm soát thông qua các quy định
hiện hành có liên quan.

Đối với các hoạt động in khác (in vật
liệu xây dựng, bao bì, nhãn, …), đây là hoạt động dịch vụ có thị trường và tần
suất thực hiện rất lớn, là hoạt động hỗ trợ, công nghiệp phụ trợ cho một loạt
các ngành kinh tế (dệt may, vật liệu xây dựng, bao bì…). Mức độ rủi ro và nhạy
cảm về nội dung in rất thấp, và cũng đã được kiểm soát bởi các công cụ khác (ví
dụ in bao bì thì Nhà nước đã kiểm soát chủ thể đặt in, với các quy định về các
nội dung bắt buộc phải có và các nội dung bị cấm trên nhãn mác). Hơn nữa, Nhà
nước cũng đang có những chính sách để hỗ trợ, phát triển ngành công nghiệp phụ
trợ nói chung. Do đó, nếu coi “hoạt động dịch vụ in” là ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện thì đây thực sự là sự cản trở lớn đến sự phát triển của ngành, nghề
này.

Từ những phân tích trên, đề nghị bỏ
“hoạt động dịch vụ in”
ra khỏi Danh mục ngành ngành nghề kinh doanh có điều
kiện quy định tại Luật Đầu tư sửa đổi.

3.2.
Các trường hợp xác định không đúng đối
tượng cần quản lý

Về mặt logic, điều kiện kinh doanh là
điều kiện ràng buộc, hạn chế và kiểm soát chủ thể kinh doanh. Vì thế công cụ
“điều kiện kinh doanh” chỉ nên sử dụng trong các trường hợp hoạt động sản xuất,
kinh doanh của chủ thể kinh doanh có thể tác động đến trật tự công  (ví dụ: đối với hoạt động khám bệnh, chữa bệnh:
yếu tố trình độ của người khám bệnh là rất quan trọng, vì tác động trực tiếp đến
sức khỏe, tính mạng con người, do đó cần phải kiểm soát ngay từ đầu, trước khi
các chủ thể này thực hiện hoạt động khám bệnh, chữa bệnh).

Đối với những trường hợp mà bản thân quá
trình sản xuất, kinh doanh của chủ thể kinh doanh không tác động đến các lợi
ích công cộng nhưng các sản phẩm, hàng hóa là kết quả của quá trình đó lại có
thể tác động đến trật tự công thì phương pháp quản lý thích hợp (và đang áp dụng)
là các giới hạn kỹ thuật tối thiểu đối với sản phẩm, hàng hóa đó (thường thể hiện
bằng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật) buộc phải đáp ứng nếu muốn
tiêu thụ tại thị trường.

Với cách tiếp cận như trên thì một số
ngành, nghề kinh doanh trong Danh mục dường như đang nhắm vào kiểm soát rủi ro
của sản phẩm, hàng hóa đầu ra và do đó là không cần thiết và không hợp lý.  Ví dụ:

a.
Xuất khẩu gạo (Mục 7 – Danh mục sửa đổi)

Về tác động của hoạt động xuất khẩu gạo
đối với an ninh quốc gia, lợi ích công cộng theo quy định tại Điều 7.1 Luật Đầu
tư?

Gạo được xem là loại hàng hóa liên
quan đến an ninh lương thực quốc gia[5], vì
vậy các chính sách quản lý đặc thù liên quan gạo có thể là cần thiết. Tuy
nhiên, pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định để đảm bảo an ninh quốc gia, quốc
phòng và các lợi ích công cộng liên quan đến sản phẩm gạo. Cụ thể, việc cân đối
nguồn thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu, các yêu cầu về dự trữ lưu thông … đã được
quy định khá rõ trong Nghị định 109[6]. Do
đó, yêu cầu về điều kiện đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo để đảm bảo cho
lợi ích công cộng là chưa phù hợp.

Ngay cả khi các điều kiện này là cần
thiết đi nữa thì các quy định về điều kiện kinh doanh cụ thể của xuất khẩu gạo trong
pháp luật hiện tại hoàn toàn không hướng đến hay giúp bảo đảm các mục tiêu công
cộng nêu tại Điều 7.1 Luật Đầu tư (ví dụ các điều kiện kinh doanh của hoạt động
xuất khẩu gạo chủ yếu liên quan đến quy mô của doanh nghiệp – Thật khó lý giải
tại sao để xuất khẩu gạo thì thương nhân phải có những điều kiện về cơ sở vật
chất với quy mô tối thiểu như trên? Và quy mô của doanh nghiệp thì giúp gì cho
việc bảo đảm mục tiêu an ninh lương thực)?

Từ những phân tích trên, đề nghị bỏ
“kinh doanh xuất khẩu gạo”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

b.
Kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy (Mục 187 – Danh mục sửa
đổi)

“Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe
máy” là sản phẩm tác động đến sức khỏe, tính mạng của con người sử dụng. Vấn đề
cần kiểm soát đối với ngành, nghề kinh doanh này chính là đảm bảo việc sử dụng
“mũ bảo hiểm” an toàn của người đi mô tô, xe máy. Điều này có thể kiểm soát
thông qua việc yêu cầu về chất lượng sản phẩm trước khi được lưu hành trên thị
trường.

Dù chủ thể sản xuất bằng dây chuyền,
thiết bị, công nghệ nào bằng những người có trình độ năng lực ra sao thì sản phẩm
cuối cùng trước khi đi ra thị trường cũng phải được kiểm duyệt để đảm bảo phù hợp
với các quy chuẩn kỹ thuật theo quy định. Hoạt động chứng nhận hợp quy này sẽ
được thực hiện bởi tổ chức chứng nhận sự phù hợp (một tổ chức đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đánh giá năng lực và xác nhận đủ trình độ để chứng nhận
hợp quy). Như vậy, các quy định hiện hành là đủ để kiểm soát về chất lượng sản
phẩm hàng hóa, đảm bảo cho các trật tự công không bị xâm phạm.

Do đó, kiểm soát điều kiện đối với
các chủ thể kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy là không cần thiết,
chưa hợp lý và là cản trở lớn đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Đề
nghị bỏ “Kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” ra khỏi Danh
mục Luật Đầu tư sửa đổi.

c.
Kinh doanh dịch vụ quảng cáo (Mục 199, Danh mục sửa đổi)

Theo quy định trong lĩnh vực quảng
cáo hiện hành thì chủ thể kinh doanh dịch vụ quảng cáo không phải đáp ứng về
các điều kiện kinh doanh (những điều kiện để gia nhập thị trường). Pháp luật quảng
cáo hiện đang quản lý theo các sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo (thông
qua các điều kiện bắt buộc về nội dung, cách thức quảng cáo). Cách tiếp cận
theo sản phẩm mà không theo chủ thể này là hoàn toàn phù hợp.

Do đó, việc chuyển ngành nghề này thì
ngành nghề kinh doanh thông thường sang ngành nghề kinh doanh có điều kiện để
kiểm soát về chủ thể kinh doanh (trước khi gia nhập thị trường) không chỉ là nhầm
lẫn về đối tượng cần kiểm soát mà còn gia tăng gấp đôi mức độ kiểm soát một
cách bất hợp lý, tạo thêm gánh nặng hành chính lớn cho hoạt động kinh doanh này.
Đề nghị bỏ “Kinh doanh dịch vụ quảng cáo” ra khỏi Danh mục.

4.      Một số ngành, nghề kinh doanh trong Danh mục chưa nhận thấy rõ tính đặc
thù so với các ngành, nghề kinh doanh thông thường cùng loại

Như đã phản ánh ở trên, việc kiểm
soát ngành, nghề kinh doanh bằng điều kiện chỉ nhằm mục đích lợi ích công cộng,
an ninh quốc gia, quốc phòng, sức khỏe cộng đồng, môi trường. Do đó, đối với những
ngành nghề có cùng tính chất, nhưng lại có sự khác nhau về phương thức quản lý
(một bên là ngành nghề kinh doanh thông thường, một bên là ngành nghề kinh
doanh có điều kiện) thì cần phải chứng minh được tính đặc thù của ngành, nghề bị
kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh (phải liên quan đến các mục tiêu ở trên) so
với các ngành, nghề còn lại.

Tuy nhiên, một số ngành, nghề kinh
doanh trong Danh mục chưa nhận thấy/được giải trình có tính thuyết phục về tính
đặc thù so với các ngành, nghề kinh doanh thông thường cùng loại khác. Ví dụ:

a.
Kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh (mục 54 – Danh mục
sửa đổi)

“Hàng thực phẩm đông lạnh” là một
trong ba loại mặt hàng (bên cạnh “hàng hóa đã qua sử dụng” và “hàng hóa có thuế
tiêu thụ đặc biệt”)  bị kiểm soát bằng điều
kiện kinh doanh khi kinh doanh tạm nhập, tái xuất.

Nếu như mục đích kiểm soát đối với hoạt
động kinh doanh tạm nhập tái xuất 02 mặt hàng còn lại là hợp lý (“hàng hóa đã
qua sử dụng” là loại hàng hóa không khuyến khích, thậm chí là cấm nhập khẩu, vì
lý do chất lượng, môi trường…và cần kiểm soát để ngăn chặn loại hàng hóa này được
tuồn vào tiêu thụ nội địa; “hàng hóa có thuế tiêu thụ đặc biệt” là nhóm dễ gian
lận thuế) thì việc kiểm soát hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất “hàng thực
phẩm đông lạnh” hầu như không có căn cứ nào thuyết phục:


Nguy
cơ hàng thực phẩm đông lạnh tạm nhập tái xuất tác động tới các lợi ích công cộng
lớn hơn so với sản phẩm tương tự hầu như không thể chứng minh được (ít nhất là
trong so sánh với các mặt hàng thực phẩm đông lạnh nhập khẩu/xuất khẩu hoặc các
mặt hàng thực phẩm khác không phải đông lạnh tạm nhập tái xuất – trong khi việc
tạm nhập tái xuất các sản phẩm này không hề bị kiểm soát bằng điều kiện kinh
doanh);


Hoạt
động tạm nhập tái xuất thực phẩm đông lạnh là một loại hoạt động trong quá trình kinh doanh chứ không phải một ngành nghề kinh doanh (bởi ít có ai
thành lập doanh nghiệp chỉ để tạm nhập tái xuất thực phẩm đông lạnh, thường hoạt
động này là do các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực phẩm thực hiện, bên cạnh
các hoạt động khác của họ như sản xuất thực phẩm, mua bán thực phẩm, nhập khẩu/xuất
khẩu thực phẩm…). Đối tượng cần kiểm soát ở đây là mỗi lần tạm nhập tái xuất của
doanh nghiệp chứ không phải là bản thân doanh nghiệp ngay từ khi họ chưa gia nhập
thị trường. Do đó, biện pháp kiểm soát, nếu cần, là hoạt động kiểm soát (qua thủ
tục hải quan, vận chuyển chuyển khẩu) đối với từng lô hàng thực phẩm đông lạnh
tạm nhập tái xuất chứ không phải là điều kiện kinh doanh đối với chủ thể thực
hiện hoạt động tạm nhập tái xuất thực phẩm đông lạnh;


Ngay
cả khi giải trình được rằng việc kiểm soát bằng các điều kiện kinh doanh là cần
thiết để bảo vệ các lợi ích công cộng thì các điều kiện kinh doanh đối với
ngành này (thể hiện trong Điều 3 Nghị định 77) không hướng tới việc bảo đảm mục
tiêu trật tự công cộng nào

Ví dụ điều kiện
về tiền ký quỹ: Không rõ việc ký quỹ thì sẽ giúp gì cho mục tiêu bảo vệ trật tự
công cộng liên quan tới thực phẩm đông lạnh tạm nhập tái xuất? Đừng về góc độ
thị trường, yêu cầu doanh nghiệp phải ký quỹ tại ngân hàng đồng nghĩa với việc
một khoản tiền của doanh nghiệp sẽ bị “đóng băng” không sử dụng trong quá trình
hoạt động. Trong kinh doanh nói chung, một khoản tiền “chết” là điều rất không
bình thường, không hợp lý đối với bất kỳ doanh nghiệp nào đặc biệt khi mục tiêu
quản lý lại chưa rõ ràng. Đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, có ít
tiềm lực về mặt tài chính nói riêng, việc buộc doanh nghiệp phải giữ khoản tiền
“chết” này từ khi gia nhập vào thị trường sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tính cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường;

Liên quan tới
những yêu cầu về điện, máy móc phục vụ kho: Đây là vấn đề thuộc về quy chuẩn kỹ
thuật đối với loại kho để chứa hàng hóa này, chứ không phải là điều kiện kinh
doanh.

Từ các phân tích trên cho thấy, việc
xác định ngành, nghề kinh doanh này là ngành nghề kinh doanh có điều kiện là
chưa hợp lý, ngay bản thân các điều kiện kinh doanh được xác định đối với loại
ngành, nghề này cũng không rõ về mục tiêu quản lý cũng như sự phù hợp với các mục
tiêu được xác định tại Điều 7.1 Luật Đầu tư. Do đó, đề nghị bỏ “Kinh doanh tạm
nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

b.
Kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô (Mục 75 – Danh mục sửa đổi)

“Hoạt động bảo hành, bảo dưỡng xe ô
tô” là một trong những dịch vụ kỹ thuật thông thường – tương tự như các hoạt động
bảo dưỡng, bảo hành hàng hóa khác trên thị trường. Vì vậy, chưa tìm thấy tính đặc
thù của loại dịch vụ này hơn các dịch vụ tương tự khác để có thể quy định về điều
kiện kinh doanh.

Quan trọng hơn, bảo hành, bảo dưỡng
xe ô tô là dịch vụ thường đi kèm với dịch vụ bán hàng hoặc sản xuất ô tô và
trong quan hệ này trách nhiệm đối với chất lượng sản phẩm thuộc về nhà sản xuất
là chủ yếu chứ không phải là người bảo hành, bảo dưỡng. Vì vậy, việc xem hoạt động
bảo hành, bảo dưỡng ô tô là ngành nghề kinh doanh có điều kiện là rất bất hợp
lý.

Ngay cả khi việc kiểm soát các dịch vụ
này là hợp lý đi nữa thì các điều kiện kinh doanh với ngành này như quy định hiện
tại cũng không thể hiện được các mục tiêu quản lý nào trong khi lại cản trở
đáng kể đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào thị trường này.

Vì vậy, đề nghị bỏ “Kinh doanh dịch
vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

c.
Sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tô (Mục 76 – Danh mục sửa đổi)

Đây là ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện mới được đề xuất bổ sung vào trong Danh mục.

Đề xuất bổ sung mới ngành nghề này
vào Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện là không hợp lý, ít nhất ở các
điểm:


Về mục tiêu kiểm soát nguy cơ/rủi ro
về chất lượng của xe ô tô
: Với tính chất là nguồn nguy hiểm cao độ (cho người tham gia giao
thông), ô tô là loại hàng hóa cần được kiểm soát về chất lượng (điều kiện kỹ
thuật). Tuy nhiên, các quy định hiện hành về tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng
và đăng kiểm đã cho phép kiểm soát khả năng đáp ứng quy chuẩn của từng chiếc xe
ô tô một trước khi phương tiện được đưa ra lưu thông (không quan trọng chủ thể
sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu là ai). Thậm chí, ngay cả khi ô tô đã được sử dụng
bởi các chủ thể sử dụng (không phải nhà sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu) thì theo
quy định của pháp luật hiện hành, định kỳ các ô tô này vẫn phải được đăng kiểm
lại. Như vậy, dưới góc độ bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng cũng như bảo vệ các
trật tự công, thì những quy định hiện hành đã đủ để kiểm soát và bảo vệ. Việc
kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh đối với các chủ thể sản xuất, lắp ráp, nhập
khẩu xe ô tô vừa thừa (đối với ô tô lần đầu đưa vào sử dụng) vừa ít ý nghĩa (đối
với ô tô đang được sử dụng).

Hơn nữa, cần
lưu ý rằng trên thực tế thời gian qua, mặc dù không áp dụng việc kiểm soát bằng
điều kiện kinh doanh đối với sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tô thì các hoạt
động này vẫn diễn ra bình thường, không gây rủi ro nào lớn cho xã hội (các rủi
ro phát sinh từ ô tô lưu thông trên đường là xuất phát từ các nguyên nhân khác,
trong đó có nguyên nhân về chất lượng nhưng là do xe cũ nát, không thực hiện
đăng kiểm lại khi đến thời hạn đăng kiểm…).


Về tính đặc thù của ô tô so với các
loại hàng hóa có cùng tính chất khác
: Ô tô là một loại phương tiện giao thông, với nguy cơ gây ra
ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người sử dụng tương tự các loại phương tiện
khác như xe máy, tàu điện, … Tuy nhiên việc sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu các
phương tiện này hiện được xem là ngành nghề thông thường, không phải ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện. Do đó việc áp đặt điều kiện kinh doanh với hoạt đông sản
xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tôt là không phù hợp với phương thức quản lý
chung với các phương tiện giao thông.


Về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và môi trường cạnh tranh lành mạnh
: Việc áp đặt điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề này
trong khi chưa chứng minh đầy đủ, có tính thuyết phục về tính đặc thù của ô tô
so với các loại hàng hóa cùng loại khác, sẽ là chính sách cản trở đáng kể cho
các chủ thể kinh doanh muốn gia nhập vào thị trường kinh doanh ô tô. Nếu điều
kiện kinh doanh được áp đặt đối với tất cả các hoạt động sản xuất, lắp ráp, nhập
khẩu xe ô tô ở Việt Nam dẫn tới hạn chế các chủ thể gia nhập thị trường thì hệ
quả hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ là vô cùng lớn. Chú ý là hiện ô tô
là phương tiện vận chuyển chủ yếu, do vậy đối tượng bị ảnh hưởng sẽ không chỉ
là các khách hàng cá nhân mà còn là toàn bộ các doanh nghiệp kinh doanh vận tải
cũng như các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu phải sử dụng phương tiện vận
tải để lưu thông hàng hóa.

Từ những phân tích trên, đề nghị bỏ
“Sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tô”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

5.      Một số góp ý khác

a.
Một số ngành, nghề trong Danh mục không phải là ngành, nghề kinh doanh

Về mặt nguyên tắc, các ngành, nghề được
xác định trong Danh mục phải là các ngành, nghề kinh doanh – tức là các hoạt động
phát sinh lợi nhuận, nhằm mục đích sinh lời như tinh thần quy định tại khoản 16
Điều 2 Luật Doanh nghiệp[7],
khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư[8].

Hoạt động dịch vụ của tổ chức trọng
tài thương mại và hoạt động dịch vụ hòa giải thương mại (Mục 13, Danh mục sửa đổi)
lại không phản ánh bản chất của của một ngành, nghề kinh doanh, bởi “Trung tâm
trọng tài hoạt động không vì mục đích lợi nhuận” (khoản 2 Điều 27 Luật Trọng
tài thương mại). Hơn nữa, đây là cơ quan tài phán, được thành lập với mục đích
xét xử, không thể và không nên coi là một ngành, nghề kinh doanh.

Các chế định về hòa giải thương mại
đang được xây dựng và dự kiến đây cũng là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận,
và là một phương thức giải quyết tranh chấp.

Xuất phát từ tính chất trên, đề
nghị bỏ “Hoạt động dịch vụ của tổ chức thương mại và hoạt động dịch vụ hòa giải
thương mại”
ra khỏi Danh mục Luật Đầu tư sửa đổi.

b.
Một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trong Danh mục không rõ phạm
vi

Một số ngành, nghề kinh doanh trong
Danh mục (sửa đổi) có phạm vi quá rộng và/hoặc chưa rõ khiến cho nguy cơ một số
ngành, nghề kinh doanh bị quản lý quá mức
cần thiết
bằng điều kiện kinh doanh và ảnh hưởng tới quyền tự do kinh doanh
của doanh nghiệp. Do đó, cần phải rà soát để thu hẹp phạm vi và/hoặc quy định
rõ về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.

Ví dụ: Kinh doanh thực phẩm thuộc
lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Công Thương (Mục 51 – Danh mục sửa đổi);
Kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (Mục 169, Danh mục sửa đổi); Kinh doanh thực phẩm thuộc
lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Y tế (Mục 180, Danh mục sửa đổi).


Không
rõ đây là những loại thực phẩm nào? Liệu có phải là tất cả các loại thực phẩm không
(bởi rốt cuộc thì một loại thực phẩm sẽ hoặc là thuộc lĩnh quản lý của một Bộ
hoặc nhiều Bộ, cơ bản không có loại thực phẩm nào không thuộc lĩnh vực quản lý
của Bộ nào cả)


Trong
Danh mục của Luật Đầu tư thì có một số loại hàng hóa thực phẩm cũng thuộc thẩm
quyền quản lý của Bộ Công Thương nhưng được tách riêng ra thành các ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện (ví dụ: gạo, thực phẩm đông lạnh). Khái niệm “thực phẩm
thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Công Thương” có thể chồng lấn với
các nhóm hàng này;

Trong khi đó, quan trọng nhất trong
kiểm soát thực phẩm chính là an toàn thực phẩm. Do đó cần đặt ra những yêu cầu
đối với quá trình sản xuất, kinh doanh đối với các loại thực phẩm này để đảm bảo
về an toàn thực phẩm. Ngoài mục tiêu trên thì không nên có ràng buộc nào khác đối
với các chủ thể kinh doanh loại mặt hàng này. Quy định tại Mục 51, Mục 169, Mục
180 có thể hiểu là sẽ quản lý bao trùm (không chỉ giới hạn ở “an toàn thực phẩm”)
đối với hoạt động kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của
các Bộ. Như vậy là biện pháp quản lý quá mức cần thiết, gây khó khăn cho doanh
nghiệp.

Ngoài ra, cần chú ý rằng việc đặt tên
nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Danh mục chưa thật sự thống nhất,
thiếu cụ thể, dẫn đến việc mở rộng ngành nghề kinh doanh có điều kiện ra quá mức
cần thiết. Ví dụ rất nhiều trường hợp trong Danh mục sử dụng cụm từ “kinh
doanh” trước các ngành nghề sản xuất, dịch vụ dẫn đến việc mở rộng điều kiện
kinh doanh ra toàn bộ các khâu của hoạt động đầu tư, từ sản xuất đến phân phối,
bán lẻ (ví dụ: kinh doanh thủy sản (Mục 148, Danh mục sửa đổi); kinh doanh thức
ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi (Mục 149, Danh mục sửa đổi); Kinh doanh thuốc bảo
vệ thực vật (Mục 159, Danh mục sửa đổi); Kinh doanh phân bón (Mục 170, Danh mục
sửa đổi); Kinh doanh giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản (Mục 171,
Danh mục sửa đổi), …). Trong khi đó trên thực tế có những trường hợp chỉ một
khâu nào đó là cần kiếm soát (ví dụ khâu sản xuất).

Vì vậy, đề nghị rà soát lại phạm
vi chính xác của các ngành nghề trong Danh mục, đặc biệt là quy định rõ
về
phạm vi đối với ngành, nghề quy định tại Mục 51, 169, 180 (chú ý cần xác định
hoạt động cần quản lý đối với hoạt động kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản
lý chuyên ngành của Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chỉ là an toàn thực phẩm).

c.
Không rõ quan điểm trong xây dựng Danh mục nếu so sánh giữa ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện được bãi bỏ và ngành, nghề kinh doanh được giữ lại, bổ
sung vào

Các ngành, nghề được đề xuất bãi bỏ,
bổ sung, giữ lại cần thống nhất về tiêu chí để đảm bảo tính nhất quán trong xây
dựng chính sách.

Một số đề xuất tại Dự thảo liên quan
đến ngành, nghề đề nghị bãi bỏ, giữ nguyên hoặc thêm vào dường như chưa thể hiện
được tính thống nhất trong quan điểm, đề nghị cân nhắc, xem xét và có giải
trình cụ thể, rõ ràng hơn.

Ví dụ 1: Các ngành, nghề kinh doanh liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức của một ngành, nghề có điều kiện

Các ngành, nghề được Dự thảo đề xuất bãi
bỏ là:


Kinh
doanh dịch vụ đào tạo đại lý bảo hiểm (Mục 30 Danh mục Luật Đầu tư 2014)


Kinh
doanh dịch vụ bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình (Mục
112, Danh mục Luật Đầu tư 2014)


Kinh
doanh dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu (Mục 188, Danh mục Luật Đầu tư
2014)

Các ngành, nghề được Dự thảo đề xuất giữ
lại/bổ sung là:


Kinh
doanh dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý vận
hành nhà chung cư (Mục 107, Danh mục sửa đổi)


Kinh
doanh dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về môi giới bất động sản, điều hành
sản giao dịch bất động sản (Mục 106, Danh mục sửa đổi)

Các tính chất của các ngành, nghề
kinh doanh được giữ lại/bổ sung gần như tương tự đối với các ngành, nghề được đề
nghị bỏ khỏi Danh mục . Ban soạn thảo cần giải trình về tính khác biệt, đặc thù
các ngành nghề quy định tại Mục 107, 106 (các lý do này cần liên hệ với mục
tiêu quy định tại Điều 7.1 Luật Đầu tư) so với các ngành nghề được đề xuất bãi
bỏ. Trường hợp không thể giải trình thuyết phục thì đề nghị bỏ cả những ngành
nghề này khỏi Danh mục.

Ví dụ 2: Các ngành, nghề liên quan đến quản lý, vận hành

Các ngành, nghề được Dự thảo đề xuất
bãi bỏ là:


Kinh
doanh dịch vụ quản lý vận hành hệ thống chiếu sáng, cây xanh (Mục 122, Danh mục
Luật Đầu tư 2014)


Kinh
doanh dịch vụ quản lý, vận hành hệ thống cơ sở hạ tầng dùng chung (Mục 123,
Danh mục Luật Đầu tư 2014)

Các ngành, nghề được Dự thảo đề xuất giữ
lại/bổ sung là:


Kinh
doanh dịch vụ quản lý, vận hành nhà chung cư (Mục 117, Danh mục sửa đổi)


Kinh
doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng (Mục 118, Danh mục sửa đổi)

Các tính chất của các ngành, nghề này
gần như tương tự nhau. Nếu cho rằng, vận hành nhà chung cư có tác động lớn đến
sự an toàn của con người (người dân sống trong các khu chung cư) do đó cần phải
kiểm soát các chủ thể cung cấp dịch vụ kinh doanh này, thì vận hành “hệ thống
cơ sở hạ tầng dùng chung” cũng tác động đến sự an toàn của con người (những người
sử dụng chung các cơ sở hạ tầng).

Lý do để đưa “kinh doanh quản lý, vận
hành hệ thống cơ sở hạ tầng dùng chung” ra khỏi Danh mục là hiện nay chưa có
quy định. Tuy nhiên, cần đánh giá việc có cần thiết hay không xác định đây là một
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện? Thực tế, chưa có quy định nào quy định về
ngành, nghề này và cũng không có rủi ro nào xuất phát từ hoạt động này tác động
đến các lợi ích công cộng. Do đó, không cần thiết phải quy định và áp đặt điều
kiện đối với ngành nghề này. Với tính chất tương tự như ngành, nghề vận hành hệ
thống cơ sở hạ tầng chung, rất khó để lý giải và thuyết phục tại sao lại phải
xác định “quản lý, vận hành nhà chung cư” là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.

Trên đây là một số ý kiến của VCCI về
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Phụ lục 4 Luật đầu tư về Danh mục ngành, nghề đầu
tư kinh doanh (phiên bản trình Quốc hội kỳ họp tháng 10-11/2016). Rất mong Quý
Cơ quan cân nhắc, xem xét.

Trân trọng cảm ơn.

 


[1]
“Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực
hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.”

[2]
Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy
định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam

Thông tư 08/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của
công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

[3]
Điều 235 Bộ luật Hàng hải 2015

[4]
Điều 12 Luật Xuất bản

[5]
Mặc dù suy đoán này có thể đúng hơn với thời kỳ Việt Nam còn thiếu lương thực,
với vị trí là nước xuất khẩu gạo lớn nhất nhì thế giới hiện nay, khả năng thiếu
gạo tiêu thụ trong nước làm ảnh hưởng tới an ninh lương thực có lẽ là không thực
sự lớn.

[6]
Nghị định 109/2010/NĐ-CP

[7]
Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi

[8][8] “Đầu
tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh
doanh
thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện
dự án đầu tư”;