VCCI góp ý đối với Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi

Thứ Ba 14:29 05-04-2016

Kính gửi: Tổng cục Hải
quan – Bộ Tài chính

Trả lời đề nghị của Quý Cơ quan lấy ý kiến thành
viên Ban soạn thảo/ Tổ biên tập đối với Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến ban đầu như sau (góp ý theo
Dự thảo Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu (sửa đổi) ngày
17/3/2016 – phiên bản trình Quốc hội cho ý kiến).

1)
Về tên của Nghị định

Thứ nhất,
tên Dự thảo hiện nay là “Nghị định Quy định
chi tiết một số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn thủ tục quản
lý thuế đối với các trường hợp miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế”
có thể được
hiểu là nội dung bao gồm 2 phần:


Quy định chi tiết
một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sau đây gọi tắt là Luật
thuế XNK);


Thủ tục quản lý
thuế đối với miễn/giảm/hoàn thuế.

Tuy nhiên, nội dung của Nghị định có 3 chương: Chương
I là quy định chung, Chương II là về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế Chương III
là Điều khoản thi hành, không hướng dẫn chi tiết thêm nội dung khác.

Luật quản lý thuế (Điều 4. Nguyên
tắc quản lý thuế) quy định: 2. Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Như vậy, nội
dung quản lý thuế được hiểu là sẽ lồng ghép vào các quy định ở các Luật chuyên
ngành. Vì vậy, không cần thiết phải có cụm “và
hướng dẫn thủ tục quản lý thuế”
nữa.

Thứ hai, các tài liệu đi kèm như Tờ trình Chính phủ, Báo cáo tổng
kết thi hành, Báo cáo đánh giá tác động đều ghi tên Dự thảo là Nghị định hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu (sửa đổi)
. Điều này gây nhầm lẫn đây là Nghị định hướng dẫn chung
Luật thuế XNK (sửa đổi) trong khi nội dung chỉ quy định về miễn, giảm, hoàn thuế.

Với các lý do trên, đề nghị Ban soạn thảo sửa tên Nghị
định
cho chính xác, ngắn gọn và thống nhất (ở tất cả các tài liệu kèm
theo) thành: “Quy định chi tiết một số điều
của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế”
.
Đồng thời, trình bày các Chương, Điều cho hợp lý hơn, có thể theo hướng chia nhỏ
Chương II thành 3 Chương riêng về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và tách các
Điều quá dài thành các Điều nhỏ hơn, tạo thuận tiện cho việc tra cứu, áp dụng.

2)
Một số quy định chưa bảo đảm tính thống nhất

Khoản 5 Điều 7 Dự thảo quy định: “Trường hợp quà biếu, quà tặng là thuốc cấp cứu, thiết bị y tế cho người
bị bệnh nặng hoặc người bị thiên tai, tai nạn có trị giá không quá 10.000.000đ
thì được miễn các loại thuế”
. Tuy nhiên, nội dung này có phần trùng lắp với
quy định tại khoản 3b Điều 7 về hàng hóa là quà biếu, quà tặng mang mục đích
nhân đạo, từ thiện. Trong khi đó, 2 khoản này lại có hạn mức được miễn thuế
khác nhau, sẽ gây khó khăn trong áp dụng.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc chỉnh sửa quy định
để loại
trừ quy định tại một trong hai khoản
nói trên để bảo đảm tính thống nhất.

3)
Một số quy định chưa bảo đảm tính hợp lý/ sắp xếp vị
trí chưa phù hợp

3.1   Về các trường hợp
miễn thuế (Điều 9)


Khoản 7 quy định:
“Hàng hóa không nhằm mục đích thương mại
trong các trường hợp sau: hàng mẫu; ảnh… ấn phẩm quảng cáo. Ấn phẩm quảng cáo
quy định tại khoản này bao gồm tờ rơi, catalog thương mại… được dùng để
quảng báo, công bố hay quảng cáo một hàng hóa hoặc dịch vụ và được cung cấp
miễn phí
chỉ được miễn thuế đơn chiếc, mỗi loại một bản.”
Quy định
này có một số vấn đề như sau:

+
Bản chất các
hàng hóa này là phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (chỉ
không được bán, nhưng vẫn dùng để trưng bày, làm mẫu), vì vậy, yếu tố “không có
tính chất thương mại” không thực sự phù hợp;

+
Riêng catalog
thì được “có tính chất thương mại”
còn các sản phẩm khác thì không, như vậy, ngay trong một khoản đã có mâu thuẫn.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy?

+
Không rõ điều kiện
“được cung cấp miễn phí” có nghĩa là
gì? Ai cung cấp và cung cấp cho ai? Trên thực tế, nếu là cung cấp miễn phí thì
thường là catalog và tờ rơi với số lượng lớn. Tuy nhiên, theo Dự thảo thì chỉ
được miễn thuế đơn chiếc, mỗi loại một bản. Trong khi đó, Dự thảo Luật cho
phép miễn thuế đối với số lượng nhỏ
(nhỏ không có nghĩa là 1 bản). Như vậy quy định trên là không hợp lý;

+
Thủ tục để doanh
nghiệp thực hiện quy định này chưa rõ ràng: Ví dụ doanh nghiệp mua hàng từ nước
ngoài về để trưng bày thì chứng minh như thế nào để được miễn thuế? Sau khi miễn
thuế thì có được bán lại hàng này hay không?

Đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi quy định này để tạo cách
hiểu thống nhất
. Bỏ cụm “không nhằm
mục đích thương mại”
(ngay trong Dự thảo Luật), đồng thời quy định cụ thể
thế nào là nhỏ, chứ không giới hạn ở 01 bản.


Khoản 4d quy định:
“Trường hợp
nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nếu sản phẩm thực
xuất khẩu trong thời hạn nộp thuế thì không phải nộp thuế nhập khẩu
nguyên liệu, vật tư tương ứng với số hàng hoá thực tế xuất khẩu.”
Dự
thảo Luật hiện tại không quy định rõ thời hạn nộp thuế riêng với trường hợp
này, nhưng với hàng hóa nói chung thì Hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế phải nộp thuế trước khi
thông quan hoặc giải phóng hàng hóa, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này.

Như vậy, việc giới hạn thời gian không có nhiều ý
nghĩa. Miễn là thực tế doanh nghiệp có xuất khẩu thì chắc chắn họ sẽ được miễn
thuế bởi chỉ cần nộp hồ sơ xin miễn thuế trước khi xuất khẩu là được.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “trong thời hạn nộp thuế” để bảo đảm
tính hợp lý của quy định.


Khoản 21 đ.2 quy định:
Dự án ưu đãi đầu tư không
được nhập khẩu hàng hóa thay thế cho hàng hóa đi thuê tài chính đã
được miễn thuế nhập khẩu
.
” Ở đây chưa rõ lý do vì sao không cho
phép dự án ưu đãi đầu tư được nhập khẩu hàng hóa thay thế cho hàng hóa đi thuê
tài chính? Trong khi thực tế không thể tránh khỏi hàng hóa bị hỏng dẫn đến
không thể tiếp tục sử dụng được hoặc thay đổi về công nghệ sản xuất, kỹ thuật dẫn
đến phải thay đổi máy móc, dây chuyền công nghệ… thì việc cấm này làm hạn chế
quyền của doanh nghiệp.

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định trên để bảo
đảm tính hợp lý và khả thi.

3.2   Về hồ sơ miễn
thuế (Điều 12):

Điều 12 Dự thảo quy định về Hồ sơ miễn
thuế nhưng điểm c Khoản 2 lại quy định: “Đối
với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, phải có thêm:… Số tiền thuế
nhập khẩu yêu cầu hoàn
” là không hợp lý.

Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi
lại cho phù hợp.

3.3   Về trình tự, thủ
tục, thẩm quyền giảm thuế (Điều 17):

Điều 17 (trước Điều 18) Dự thảo quy định
Chi cục trưởng Chi cục hải quan nơi làm
thủ tục hải quan có thẩm quyền quyết định xét giảm thuế
”.

Trong khi đó, Điều 18 Dự thảo Luật thuế XNK
quy định: “Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
đang trong quá trình giám sát của cơ quan hải quan nếu bị hư hỏng, mất mát được
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám định chứng nhận thì được giảm thuế.”
, nghĩa
là một khi doanh nghiệp có đủ hồ sơ theo quy định thì đương nhiên được giảm thuế.

Nếu quy định như Dự thảo thì ngay cả trường
hợp doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện để được giảm thuế cũng chưa chắc được
giảm vì còn phải chờ việc “xét” của
Chi cục trưởng Chi cục Hải quan. Cũng không rõ Chi cục trưởng sẽ dựa vào các tiêu
chí nào để “xét” nếu không phải là
các điều kiện đã được quy định trong Nghị định?

Hơn nữa, điểm đ Khoản 2 Điều này đã quy
định: Kết quả kiểm tra nếu xác định
nguyên liệu, máy móc, thiết bị nhập khẩu đủ điều kiện giảm thuế theo quy định
thì Chi cục trưởng Chi cục Hải quan nơi làm thủ tục nhập khẩu ban hành quyết định
giảm thuế nhập khẩu
…” là đã đủ
rõ ràng về thẩm quyền.

Với các lý do trên, đề nghị Ban soạn thảo
bỏ
khoản 4 Điều 17.

3.4  Về các trường hợp hoàn thuế và điều kiện hoàn thuế (Điều
18)

Khoản 4 Điều 18 quy định một trong các
điều kiện để hàng hóa không còn chịu sự giám sát hải quan được hoàn thuế là “không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt”. Điều
này là bất hợp lý bởi Nghị định 105/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) tại Điểm c Khoản 1 Điều 6 đã cho phép hoàn thuế đối với “d)
Hàng nhập khẩu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng tái xuất
khẩu ra nước ngoài được hoàn lại số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với s
hàng
xuất trả lại nước ngoài;
”. Vì vậy,
không có lý do gì mà thuế TTĐB được hoàn còn thuế nhập khẩu thì không.  Đề nghị Ban soạn thảo có lý giải căn cứ cho
quy định này. Trường hợp không có lý do thích đáng, đề nghị Ban soạn thảo bỏ
khoản 4 Điều 18 để bảo đảm tính thống nhất của chính sách thuế.

3.5
 Về hồ sơ hoàn thuế (Điều 17)

Điều 17 (sau Điều 18 – do trong Dự thảo đánh số nhầm)
Dự thảo quy định về hồ sơ hoàn thuế nhưng lại lồng ghép một số nội dung không
phải là hồ sơ mà là điều kiện hoàn thuế, đáng lẽ phải được quy định tại
Điều 18, cụ thể:


Điểm c Khoản 2: “hàng hóa đã xuất khẩu nhưng phải nhập khẩu
trở lại Việt Nam… chưa qua quá trình sản xuất, gia công, sửa chữa hoặc sử dụng
ở nước ngoài
”;


Điểm đ Khoản 2: “Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận
chuyển của các tổ chức, cá nhân được phép tạm nhập, tái xuất để thực hiện các dự
án đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình, phục vụ sản xuất… không thực
hiện theo hình thức thuê mượn
”.
Ở đây chưa rõ mục đích của quy định, cũng
chưa rõ “thuê mượn có trả phí” là như thế nào, thực tế doanh nghiệp sẽ phải
đóng thuế nhập khẩu trên phí dịch vụ thuê, mượn và không được hoàn.

Do đó, đề nghị
Ban soạn thảo nghiên cứu và sắp xếp lại quy định trên cho hợp lý.

4)
Một số quy định về thủ tục hành chính chưa bảo đảm
tính minh bạch

4.1
Về các trường
hợp miễn thuế (Điều 9 Dự thảo)

Khoản 6 Điều 9 quy định chi tiết khoản 9
Điều 16 Luật thuế XNK về Hàng hóa tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập trong thời hạn nhất định… nhưng
chỉ nhắc lại quy định tại Luật mà không có quy định cụ thể nào.

Để bảo đảm tính minh bạch, đề nghị Ban
soạn thảo bổ sung quy định về hồ sơ, tài
liệu
để doanh nghiệp chứng minh “thời
hạn nhất định”
nói trên.

4.2
Về hồ sơ miễn
thuế (Điều 12)

Khoản 2c Điều 12 Dự thảo quy định “Đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng
xuất khẩu phải có thêm: Công văn yêu cầu miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư
nhập khẩu …trong đó nêu rõ: số tờ khai hàng hóa nhập khẩu đề nghị miễn thuế;
tên hàng, số thứ tự dòng hàng, số lượng hang hóa trên tờ khai hải quan…”

trong khi Khoản 1 Điều này đã nêu rõ: “ Hồ
sơ miễn thuế là hồ sơ hải quan
.”

Việc yêu cầu lặp lại các thông tin đã có trong hồ sơ
hải quan là tạo thêm thủ tục không cần thiết, làm mất thời gian, chi phí của
doanh nghiệp. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu và bỏ các nội dung bị trùng lặp.

Góp ý tương tự với Hồ sơ Hoàn thuế
(Điều 17 Dự thảo).

4.3
Về thủ tục
miễn thuế (Điều 13)

Điều 13 Dự thảo quy định Thủ tục miễn thuế nhưng
không rõ thời hạn các cơ quan quản lý nhà nước về thuế thực hiện thủ tục này
như thế nào. Đặc biệt là trường hợp người
nộp thuế gặp khó khăn do nguyên nhân khách quan và các trường hợp khác thuộc đối
tượng miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo quy định của Chính phủ
: sau
bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hồ sơ thì Tổng cục Hải quan sẽ kiểm tra lại toàn
bộ hồ sơ và báo cáo Bộ Tài chính và sau bao nhiêu ngày kể từ ngày Bộ Tài chính
nhận được hồ sơ sẽ trình lên Thủ tướng Chính phủ?

Góp ý tương tự với trường hợp phải đăng ký Danh mục
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu miễn thuế: trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ
ngày nhận được các tờ khai nhập khẩu của doanh nghiệp thì Cục trưởng Cục Hải
quan sẽ xem xét và quyết định từng trường hợp cụ thể?

Thời hạn là nội dung đặc biệt quan trọng trong việc
thực hiện thủ tục hành chính mà nếu thiếu nó thì cả tính minh bạch và khả thi của
văn bản đều sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thời hạn cho các
nội dung trên và các quy định khác có tính chất tương tự.

4.4   Về thủ tục đăng ký Danh mục hàng hóa miễn thuế trước
khi xuất khẩu, nhập khẩu (Điều 10)

Khoản 6 Điều 10 Dự thảo quy định về thủ tục đăng ký
Danh mục hàng hóa miễn thuế trước khi xuất khẩu, nhập khẩu: “Thời điểm đăng ký danh mục là trước khi
đăng ký tờ khai
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đầu tiên của dự án”
nhưng
không rõ là trước bao nhiêu ngày?

Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định cụ thể thời hạn
trên để tạo điều kiện cho việc thực hiện đúng và thống nhất.

4.5   Về các trường hợp và điều kiện hoàn thuế (Điều 18)

Điều 18 về các trường hợp hoàn thuế quy định: “Các trường hợp khác phù hợp với mục tiêu quản
lý từng thời kỳ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính”
. Đây là quy định tích cực,
thể hiện sự linh hoạt của ngành thuế, tạo cơ hội cho doanh nghiệp được hưởng
các quyền lợi chính đáng phù hợp với thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh
và điều kiện kinh tế – xã hội.

Tuy nhiên, thẩm quyền ban
hành sẽ hợp lý hơn nếu thuộc về Thủ tướng Chính phủ (trên cơ sở đề xuất của Bộ
Tài chính) vì các trường hợp hiện tại đã được quy định ở cấp Nghị định.

Bên cạnh đó, cần quy định cụ
thể hơn nguyên tắc để xác định các trường hợp này, cụ thể: “từng thời kỳ” được xác định trong khoảng thời gian bao nhiêu lâu?
Trong những hoàn cảnh nào (thay đổi chính sách, thay đổi trong thực tiễn hoạt động
của nền kinh tế, doanh nghiệp…) thì Bộ Tài chính có nghĩa vụ phải xem xét và
quy định? Cách thức công bố các trường hợp này như thế nào? Doanh nghiệp có thể
tiếp cận bằng phương thức nào?

Để bảo đảm tính khả thi của
quy định, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung các nội dung nêu trên và quy định thẩm
quyền quyết định thuộc về Thủ tướng Chính phủ
.

5)
Một số góp ý khác


Khoản 3 Điều 7 Dự
thảo quy định: “Trường hợp miễn thuế với
quà biếu, quà tặng từ tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đối với trường hợp là quà biếu
quà tặng của tổ chức cá nhân nước ngoài cho tổ chức Việt Nam nếu giá trị quà biếu
không quá 30 triệu đồng sẽ không chịu thuế GTGT
”. Tuy nhiên, Nghị định
209/2013/ND-CP và Thông tư 219/2013/TT-BTC chỉ quy định về trường hợp miễn thuế
đối với quà biếu quà tặng cho các tổ chức cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước.
Do đó, nếu trong Nghị định này cho phép việc các quà biếu quà tặng từ nước ngoài
tới các tổ chức khác không phải chịu thuế GTGT thì phải điều chỉnh quy định về
thuế GTGT cho phù hợp;


Khoản 4 Điều 9 Dự
thảo quy định về miễn thuế đối với các nguyên liệu, vật tư hàng hóa nhập khẩu để
sản xuất xuất khẩu nhưng một số nội dung lại về hoàn thuế (khoản 4b.2, 4b.5 đến
4b.8 và 4c) là không phù hợp, ví dụ:

+
4b.3) Tổ chức, cá nhân nhập khẩu nguyên liệu, vật tư (trừ
sản phẩm hoàn chỉnh) để thực hiện hợp đồng gia công… khi thực xuất khẩu sản phẩm
sẽ được xét hoàn thuế nhập khẩu như đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu
để sản xuất hàng hoá xuất khẩu;

+
4b.8.1) Điều kiện để được hoàn thuế đối với nguyên
liệu, vật tư nhập khẩu

Đề nghị Ban soạn
thảo sắp
xếp các quy định
này vào nội dung phù hợp.


Trình
bày lại các điều khoản, điểm cho dễ theo dõi. Tách các khoản ở Điều 9 thành các
Điều nhỏ hơn;



soát lại các tên Điều, Khoản, điểm cho thống nhất (ví dụ Điều 17 quy định về
Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giảm thuế nhưng Khoản 1 lại ghi “Nộp và tiếp nhận
hồ sơ xét miễn thuế”);


Dự
thảo chưa có các Mẫu để doanh nghiệp thực hiện khai hoàn/miễn/giảm thuế nên
chưa có điều kiện góp ý, đo đó, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung;


Hiện tại Dự thảo Luật thuế XNK dự kiến được thông qua tháng 4/2016 và dự
kiến có hiệu lực từ 01/9/2016, theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) thì Nghị định phải được ban hành để có thời hạn hiệu lực cùng với
Luật.
Do đó, cần cân nhắc các vấn đề
sau:

+
Khoản 4 Điều 14
Luật ban hành VBQPPL quy định các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có việc quy
định thủ tục hành chính trong thông tư của Bộ trưởng (trừ trường hợp được Luật
giao). Do đó, đề nghị Ban soạn thảo rà soát tất cả các thủ tục hành chính có
thể phát sinh trong hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế đưa vào Nghị định này để
bảo đảm tuân thủ quy định trên;

+       Điều 11 Luật ban hành VBQPPL quy định về Văn bản quy định chi tiết:

“1. Văn bản quy phạm pháp luật phải
được quy định cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Trong trường
hợp văn bản có điều, khoản, điểm mà nội dung liên quan đến quy trình, quy chuẩn
kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết thì ngay tại điều,
khoản, điểm đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết
.
Văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và không
được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết.”

Hiện
tại, Dự thảo chỉ quy định chung tại khoản 3 Điều 22: “Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc thi hành Nghị định này” mà chưa
đi cụ thể vào từng quy định. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo rà soát các điều,
khoản cần quy định chi tiết và nêu ngay tại điều, khoản đó để phù hợp với căn cứ
quy định nêu trên của Luật ban hành VBQPPL.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu (sửa đổi). Rất mong quý
Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh
sửa, hoàn thiện. VCCI sẽ tiếp tục tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp, hiệp hội
doanh nghiệp sau khi Dự thảo được hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của
quý Cơ quan.