VCCI góp ý Dự thảo Thông tư bổ sung, sửa đổi Thông tư về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thứ Tư 09:53 27-12-2017

Kính gửi: Vụ Tài chính – Kế toán

                              Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Trả lời Công văn số 8750/NHNN-TCKT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2013/TT-NHNN ngày 28/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:

  • Về khái niệm “khách hàng vay” (khoản 1 Điều 1 Dự thảo sửa đổi khoản 4 Điều 3 Thông tư 03)

Dự thảo quy định “khách hàng vay là pháp nhân, cá nhân có quan hệ tín dụng hoặc có nhu cầu quan hệ tín dụng với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức tự nguyện”.

Xác định khách hàng vay là “các pháp nhân, cá nhân có nhu cầu quan hệ tín dụng với tổ chức tín dụng” là phạm vi quá rộng (vì bất kỳ đối tượng nào cũng có thể có nhu cầu vay và là khách hàng vay tiềm năng) và không rõ (không biết chính xác đối tượng vay là ai). Việc thiếu rõ ràng trong xác định khách hàng vay sẽ dẫn tới khó khăn trong triển khai thực hiện Điều 7 Thông tư 03 (sửa đổi tại khoản 2 Điều 1 Dự thảo), tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp “thông tin nhận dạng khách hàng vay”.

Do đó, để đảm bảo tính hợp lý và minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “có nhu cầu quan hệ tín dụng” trong quy định tại khoản 1 Điều 1 Dự thảo (sửa đổi khoản 4 Điều 3 Thông tư 03).

  • Về bổ sung quy định liên quan đến “hạn chế khai thác thông tin tín dụng” (khoản 3 Điều 1 Dự thảo bổ sung khoản 5 và 6 Điều 11 Thông tư 03)
  • Về các trường hợp tạm ngừng cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng (bổ sung khoản 5 mới)

Dự thảo bổ sung khoản 5 Điều 11 Thông tư 03 về các trường hợp Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) được quyền tạm dừng việc cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng liên quan đến khách hàng hoặc nhóm khách hàng, trong đó có 03 trường hợp:

  • Tranh chấp, khiếu nại có tính chất phức tạp cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền (điểm a khoản 5)
  • Khách hàng vay vi phạm khoản 2-5 Điều 6 Thông tư 03 (điềm b khoản 5)
  • Các trường hợp tương tự khác (điểm d khoản 5)

Quy định về các trường hợp này  là chưa rõ ràng, dễ bị lạm dung:

+ Đối với trường hợp ở điểm a khoản 5: Tranh chấp, khiếu nại này là giữa các chủ thể nào? (giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay? giữa tổ chức tín dụng với CIC? giữa các khách hàng vay với nhau)? Tranh chấp, khiếu nại ở mức nào, kiểu gì thì được cho là có “tính chất phức tạp”?

+ Đối với trường hợp ở điểm b khoản 5: Các khoản 2-5 Điều 6 Thông tư 03 quy định về nhiều loại hành vi cấm, trong đó có hành vi cấm chỉ áp dụng cho chính tổ chức cung cấp thông tin tin dụng (ví dụ, cố ý làm sai lệch nội dung thông tin tín dụng, cản trở hoạt động thu thập, khai thác thông tin tín dụng của tổ chức, cá nhân) mà không áp dụng cho khách hàng vay.

+ Đối với “Các trường hợp tương tự khác”: Quy định này quá chung chung và mở rộng khá nhiều phạm vi tạm ngừng cung cấp thông tin của CIC.  

Các quy định nói trên không rõ ràng, vì vậy trao khá nhiều quyền cho CIC trong quyết định cung cấp hay không, tạm ngừng hay không việc cung cấp thông tin cho khách hàng và có thể  ảnh hưởng khá lớn đến quyền lợi của khách hàng. Ví dụ, theo phản ánh của một số doanh nghiệp, việc tạm ngừng cung cấp thông tin khách hàng có thể ảnh hưởng trực tiếp tới việc thu hồi nợ của các AMC (công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng) bởi nghiệp vụ thu hồi nợ cần có thông tin xác minh từ CIC.

Do vậy, để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan và tính minh bạch của quy định, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại điểm d khoản 5 và quy định theo hướng rõ ràng, cụ thể hơn trường hợp tại điểm a khoản 5.

  • Về thời hạn tạm ngừng (bổ sung khoản 6 mới)

Dự thảo quy định “thời hạn tạm ngừng việc cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng theo quy định tại khoản 5 nêu trên là 30 ngày kể từ ngày Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam nhận được tranh chấp, khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn đó có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày. Tùy từng trường hợp cụ thể hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam xem xét việc tạm dừng cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng không thời hạn”.

Quy định trên là chưa rõ ràng ở các điểm sau:

  • Về thời điểm bắt đầu tạm ngừng cung cấp thông tin tín dụng:

Dự thảo mới chỉ đề cập tới trường hợp tạm dừng do tranh chấp, khiếu nại mà chưa đề cập tới các trường hợp tạm dừng vì lý do khác? (ví dụ nếu khách hàng vi phạm khoản 2-5 Điều 6 Thông tư 03 thì bắt đầu tạm ngừng từ thời điểm nào? Nếu dừng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì tính từ thời điểm nào?). Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể cho các trường hợp này.

Đối với trường hợp dừng do tranh chấp khiếu nại: Như đã đề cập ở trên, cần làm rõ tranh chấp, khiếu nại này là giữa ai, như thế nào? Ngoài ra, cần chú ý là theo quy định hiện tại của Dự thảo thì không phải mọi tranh chấp, khiếu nại đều là căn cứ để dừng việc cung cấp thông tin mà ít nhất phải là tranh chấp đã được đưa ra trước cơ quan có thẩm quyền, đã được tiếp nhận/thụ lý và vụ việc đang trong quá trình giải quyết; như không không thể cứ khi “nhận được tranh chấp, khiếu nại” là dừng cung cấp thông tin như Dự thảo nêu được. Hơn nữa,  “nhận được tranh chấp, khiếu nại” cần được hiểu là thế nào (tự thu thập thông tin và biết? nhận được thông báo của bên liên quan? nhận được thông báo từ cơ quan có thẩm quyền?). Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại để bảo đảm quy định thống nhất giữa khoản 6 và khoản 5, đồng thời quy định cụ thể về các vấn đề liên quan.

  • Về thời hạn tạm dừng cung cấp thông tin tín dụng:

Dự thảo quy định 02 thời hạn: Nhóm thứ nhất thời hạn là 30 ngày (có thể gia hạn nhưng không quá 45 ngày) và Nhóm thứ hai không có thời hạn.

Có thể thấy nhóm “không có thời hạn” ảnh hưởng lớn tới khách hàng và vì vậy phải là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, theo các căn cứ được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, Dự thảo hiện lại không quy định bất kỳ căn cứ nào mà trao quyền quyết định tuyệt đối cho CIC (“tùy trường hợp cụ thể”). Điều này là không hợp lý và có thể ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân muốn khai thác dịch vụ thông tin tín dụng. Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể những trường hợp CIC sẽ tạm dừng cung cấp sản phẩm thông tin tín dụng không thời hạn.

Ngoài ra, cần chú ý rằng trường hợp tạm dừng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì không thể là tạm dừng không thời hạn được. Bởi nếu quyết định của cơ quan có thẩm quyền có nêu rõ về thời hạn tạm dừng thì phải theo thời hạn đó, trường hợp quyết định không nêu rõ thời hạn thì thực hiện theo thời hạn thông thường (30-45 ngày). Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại quy định về thời hạn tạm dừng cung cấp thông tin đối với trường hợp cụ thể này theo cách như nêu trên.

  • Về bỏ quy định “thời hạn cung cấp thông tin tín dụng” (khoản 1 Điều 2 Dự thảo)

Điều 8 Thông tư 03 quy định khá chi tiết về thời hạn cung cấp thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng cho CIC (mà thực chất là cách thức cung cấp thông tin tín dụng). Dự thảo bỏ quy định tại Điều 8 Thông tư 03, đồng nghĩa với việc không có ràng buộc/hướng dẫn cụ thể về thời hạn cũng như cách thức cung cấp thông tin tín dụng.

Như vậy trách nhiệm cung cấp thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng cho CIC sẽ được thực hiện như thế nào? Vào thời điểm nào? Một số ngân hàng cho rằng, việc bỏ quy định tại Điều 8 Thông tư 03 sẽ dẫn tới việc CIC không bị ràng buộc về bất kỳ thời hạn hay cách thức cung cấp thông tin tín dụng nào cho khách hàng, do đó có thể dẫn tới bất lợi cho khách hàng và gây bất cập, tranh chấp trong quá trình thực hiện thực hiện. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc giữ lại Điều 8 hoặc bổ sung quy định thay thế Điều 8 về việc cách thức, thời hạn cung cấp thông tin tín dụng của các tổ chức tín dụng.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2013/TT-NHNN ngày 28/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Ngoài ra gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan cân nhắc, xem xét.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.